Bạn Tâm Giao – Tình Chiến Hữu

ngày 15.04.20


Do Phượng Vy thực hiện và trình bày trên đài phát thanh 1600AM Saigon Dallas Radio.


Lời Giới Thiệu:

Đây là loạt bài viết về 4 thằng bạn gần như “nối khố” của tôi. 5 đứa có đủ 3 miền đất nước cùng là dân phi hành. 1 Bắc 1 Nam 3 Trung. 3 thằng chung trường, 5 thằng chung khoá. Thân thiết nhau đến nỗi có lúc tôi tưởng chúng nó là anh em thủ túc của mình.

Trải qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, hiện chúng tôi đều ở Mỹ, dù mỗi người mỗi tiểu bang nhưng vẫn luôn liên lạc và thỉnh thoảng gặp thăm nhau. Ở lứa tuổi nội ngoại cả rồi mà khi gặp mặt nhau thì cứ mầy mầy tao tao như thời mới lớn.

Chúng tôi cùng gia nhập khoá 4/69 Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân thuộc Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Vào tiểu đoàn Quang Trung Nguyễn Huệ “Sống Mạnh Sống Hùng” (đó là khẩu hiệu của tiểu đoàn) vào đầu Tháng 6/1969. Tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Th/T Trần Văn Hiến, nổi tiếng là một cấp chỉ huy “hắc ám” nhất của quân trường Quang Trung. Mới nhập khoá đã nghe tiếng đồn kinh mang “liệu thần hồn, chuẩn bị thần xác” để có thể vượt qua 3 tháng quân trường. Lại nghe đồn rằng, các thẩm quyền của Tiểu đoàn này không mấy ưa đám SVSQ Không Quân (?).

Quả thật, “sống mạnh sống hùng” đâu chưa thấy mà chỉ thấy bị đì tối đa. Nhất là mỗi chiều từ bãi tập về, đang thần hồn nát thần xác, mệt mỏi bỡ hơi tai, đói lả cả người thế mà còn phải chạy “chào sân” vài vòng doanh trại rộng thênh thang mới được tắm rửa, ăn uống, ngủ nghỉ.

Nhớ có lần Long mập – người được chỉ định cầm cờ cho Đại đội – bị bệnh nghỉ ra bãi và tôi bị chỉ định (cái tội to con lớn xác) cầm thay, từ bãi chạy về; vì muốn “chơi nổi”, mới chạy một vòng đã dẫn đại đội vào sân để tản hàng, ai nhè gặp “cù lũ” (xếp lớn) đứng chờ sẵn nên cả Đại đội bị phạt chạy hơn số vòng bình thường và sau đó bắt tôi chà láng cho chừa cái tật ba gai. Không những cả Đại đội oán hận tôi mà tôi cũng oán hận “cù lũ” ngút ngàn mà không dám hó hé. Sau ngày gãy cánh, hơn ba chục năm sau gặp lại “cù lũ” ở đất khách quê người, trong dịp Hội Ngộ 40 Năm của khoá, tôi cắc cớ hỏi ông tại sao hồi xưa ngài “hắc ám” với chúng tôi như vậy, ngài cười tỉnh bơ nói, “Các cậu KQ hồi đó mà không đe nẹt ngay, không kỷ luật sắt thì ai mà trị nổi đám con ông trời. Mà có vậy mới xứng đáng là chiến binh của một quân chủng oai hùng chứ.”

Theo thứ tự thời gian quen biết, xin giới thiệu đến bạn đọc những nét chấm phá của từng nhân vật trong “võ lâm ngũ quỷ” đương thời.

1. Huỳnh Quy

Tôi từ miền quê đất đỏ nắng bụi mưa bùn Võ Đắt về một xứ cũng chẳng khác gì, nhưng là tỉnh lỵ, để học lớp Đệ Tam Trường Trung Học Công Lập Long Khánh. Ở đây tôi quen với nó.

Tôi không nhớ đã quen với nó từ lúc nào, quen cách nào. Nó học ban B, tôi ban A. Dân nhà quê lên tỉnh lỵ có một số mặc cảm nhất định nên suốt ngày chỉ chúi mũi vào sách vở. Hơn nữa, đi với tôi về tỉnh còn có 3 đứa bạn khác nên không có nhu cầu tìm thêm bạn ở một nơi xa lạ.

Khi lên lớp Đệ Nhị, ba người bạn đi với tôi năm trước đã bỏ cuộc đăng lính và một người bạn mới, lớp dưới, vào thuê nhà ở chung với tôi. Tôi thật sự không còn nhớ cơ duyên nào đã khiến nó thuê chung nhà, ăn chung chỗ mặc dầu nó có nhà, có mẹ, có các anh chị ở gần trường chúng tôi theo học.

Nó dân Huế chính gốc và hai thằng tôi Quảng Ngãi rặt, thế mà hợp với nhau cách nào không biết lại chấp nhận sống chung hoà bình. Tính tình nó rất tốt, rộng rãi, quý trọng bạn bè nhưng có hơi khó chịu. Tính tôi đã gọn gàng, ngăn nắp nhưng vẫn chào thua nó. Điều gì làm nó không hài lòng là kể như… “mùa mưa lần này bầy nhầy hơn mưa lần trước!”

Thời gian cắp sách đến trường và tình bạn vẫn bình thản theo dòng đời trôi được mấy năm dù có những thay đổi nơi ăn chốn ở trong đời học trò. Đến lúc tôi chán học “bỏ đò bỏ bến bỏ dòng sông” đăng vào Không Quân, nó cũng lọt tọt làm theo. Ngày tôi vào Quang Trung ở Đại Đội 43, nó cũng vào sau đó một tuần ở Đại đội 44, cùng Tiểu đoàn Nguyễn Huệ “sống mạnh sống hùng.”

Sau tuần lễ đầu bỗng nghe xì xào có dịch bệnh “đau màng óc” phát sinh. Ban Y tế Tiểu đoàn lùa cả hai đại đội ra ngoài sân rồi hỏi ai cảm thấy có triệu chứng nhức đầu thì đứng qua một bên. Không biết nó nghe lộn, sắp hàng lộn hay sao mà bị giữ lại để khám nghiệm cho kỹ. Đến khi người ta khám xét kỹ lưỡng, chẳng tìm được triệu chứng gì ở trong người nó thì đã trễ khoá học mất rồi. Nó được giữ lại khoá sau và cuối cùng bị đưa qua nhập khoá ở trường Võ Khoa Thủ Đức và được làm sĩ quan, trong khi tôi vẫn mang con cá cho tới khi về nước.

Sau bao nhiêu thay đổi trong đời binh nghiệp, tôi về Phi đoàn Tinh Long 821 bay AC119K thì lại gặp nó, lại thuê nhà ở chung ngoài phố mấy năm dài trước khi nó lập gia đình và tôi được cấp phòng riêng ở cư xá sĩ quan độc thân.

Tôi với nó dĩ nhiên rất có nhiều kỷ niệm, nhưng kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời là lần tôi năn nỉ mượn được chiếc xe Honda ‘68 mới toanh của nó đi thăm ông anh Biệt Động Quân, cho oai, đang đóng quân ở Hậu Nghĩa.

Có lẽ nó biết tôi chạy xe hơi… ba gai nên phải trải qua nhiều lần thuyết phục nó mới đồng ý. Trước khi nó đưa xe cho tôi còn dặn đi dặn lại năm lần ba lượt, “Mầy làm ơn chạy xe cẩn thận giùm tao; tao mới xin tiền của Mạ tao mua đó nghe.” Dĩ nhiên là tôi hứa chắc như bắp với nó trước khi nó chịu đưa chìa khoá cho tôi.

Từ Saigon đi Hậu Nghĩa cũng khá xa. Chỗ Tiểu đoàn của ông anh đóng phải đi đò qua một con sông nhỏ. Dù vậy, vẫn không có vấn đề gì để tới nơi. Ông anh thấy thằng em xuống thăm mừng lắm, có phần hãnh diện với cấp dưới của mình nên bày tiệc nhậu linh đình. Chén chú chén anh tới say quắc cần câu lúc nào không hay. Khi trời nhá nhem tối, tôi phải gượng ra về, quên mất lời hứa với nó, vừa qua khỏi đò đã phóng xe chạy ngả nghiêng, loạng quạng nhưng cũng về tới Saigon… Khi bình tâm nhìn lại chiếc xe… ồi giời! Chiếc xe móp méo đủ chiều! Sợ quá tỉnh rượu cấp kỳ, đem xe tới tiệm sửa. Yêu cầu tiệm cố gắng hoàn chỉnh càng mau càng tốt. Dĩ nhiên phải trả tiền thêm nhưng cũng phải mất mấy ngày mới đem xe trả lại cho nó.

Dĩ nhiên trong những ngày xe nằm ở tiệm, tôi nghe nó hát bản nhạc “hai mùa mưa” tới nhức đầu nhức óc, phải tránh mặt luôn ở phi đoàn cho tới khi lấy xe về giao lại cho nó mà vẫn nghe bài ca quen thuộc cho tới đĩa rè, kim mòn! Đã bảo tính nó rất tốt nhưng vô cùng khó chịu mà! Mà không khó chịu cái vụ này mới là lạ à nghen. May mà nó không xịt chó cắn. Nó chỉ quạu là phước lớn cho tôi rồi! Lỗi của tôi tới một ngàn phần trăm chứ đâu có thể nhẹ hơn.

Dù vậy, chúng tôi vẫn hôm sớm có nhau co tới khi hắn có vợ có con và tôi thì cứ độc thân vui tính, được quân đội thương tình cấp cho một phòng riêng ở cư xá độc thân trong căn cứ. Kể từ lúc đó, nó thoát được tôi; phần đời chúng tôi dính chung được giải phẫu an toàn, ai lo thân đó.

Trưa 29/4/1975 tôi vượt thoát đến Utapao, Thái Lan để lánh nạn; nó ở lại rồi đi tù, rồi về lại Long Khánh sau một thời gian dài, rồi “Hỡi Ơi” [H.O] qua tới Seattle tái lập cuộc đời mới. Nghe tin nó qua được bến bờ tự do tôi rất mừng nhưng vì đời sống lu bu quá nên phải rất lâu mới gặp lại nhau ngắn ngủi một lần. Và nó, cũng như những người qua sau, đã phải vật lộn với đời sống mới. Với bản tính cần cù, sau một thời gian nghe gia đình nó đã được ổn định, có nghề ngỗng đàng hoàng và cuộc sống nó từ đó thăng hoa.

Bây giờ thì đã nghỉ hưu, lũ con đã nên người lại có địa vị trong xã hội, nhưng tiếc bản thân nó sức khoẻ kém đi nhiều sau bao năm lao khổ với tù đày và cơ cực trong cuộc sống mới. Nó ở tận Seattle âm u còn tôi ở xứ Cao-Bồi nắng cháy nên cũng ít gặp nhau. Thương nhớ nhau, ngoài vài ba lần tôi về Seattle thăm nó, phần nhiều biểu tỏ qua điện thoại, lâu lâu mới có dịp thăm nhau hoạ hoằn.

2. Hoàng Văn Hội

Khi tôi đăng lính, nó và Huỳnh Quy còn trong ghế nhà trường. Khi tôi qua được hồ sơ an ninh thì chúng nó cũng được nhận. Ở Long Khánh, ngoại trừ anh Nguyễn Gia Tập đã vào Không Quân trước lâu, lũ học trò Long Khánh cũ của bọn tôi kéo nhau theo cả đám khi Không Quân bành trướng. Nào Hội, Quy, Hữu, Tùng, Hồng, Gia Cần, Gia Học.

Hồi còn học Long Khánh, tôi với nó mới sơ giao, biết nhau từ năm Đệ Nhất, nó Ban B tôi Ban A. Nó Bắc kỳ rau muống, tôi Trung kỳ ớt cay. Nhà nó ở đường xe lửa, cổng số 6, không cách xa nhà trọ của tôi là bao nhưng ít qua lại với nhau.

Về Saigon, nó có bà chị họ, nhà cao cửa rộng vùng gần Ngã Ba Ông Tạ. Khi vào KQ gặp nhau, nó kéo tôi về xin bà chị cho ở nhờ chờ thủ tục nhập khoá Quang Trung, rồi trong thời gian chuẩn bị đi Mỹ. Bà chị thương em thương luôn bạn của nó nên vui vẻ cho tá túc dù trong nhà đã có tới 6 người con. Hai người lớn nhất đã đi tu, một nam một nữ. Còn lại 4 đứa rồng rồng – nói rồng rồng chứ vài năm sau cũng có hai đưa gia nhập KQ – nên chơi giỡn với nhau cũng vui nhà vui cửa. Chúng tôi được cho phòng ở sân thượng, lầu 3 mặc sức đi, về, mặc sức đùa nghịch, ca hát lúc nào cũng được.

Nhập khoá 4/69 SVSQKQ vào quân trường Quang Trung, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, Đại đội 43 cùng lúc. Đại đội có 200 thư sinh đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Khi nhập khoá, họ bắt lũ chúng tôi đứng sắp hàng từ thấp lên cao; chia làm 4 Trung đội. Nó thuộc Trung đội Người Lùn, tôi ở Trung đội Người Voi.

Xong Quang Trung về đạp cỏ một thời gian rồi nhập khoá học Sinh ngữ cũng cùng lúc, ra trường cùng lúc, đi Mỹ cùng lúc, học bay cùng khoá, khác lớp. Xong trường bay, nó được chọn bay “bà già” C47 đi trường bay khác, tôi qua vận tải lớn hơn, C123, đi trường bay khác.

Về nước không cách nhau bao nhiêu nhưng nó và tôi khác đơn vị, thân ai người đó lo từ đó. Dù vậy, chúng tôi vẫn loanh quanh với nhau khắp nẻo đường thành.

Một kỷ niệm với nó, đặc biệt cho tới giờ, vẫn không ai có thể quên được.

Một ngày đẹp trời, tôi và Huỳnh Quy rủ nó đi ăn tối vì ai cũng được nghỉ bay. Ăn xong đề nghị tới nhà bạn gái của nó chơi một lúc. Bạn gái của nó có một cô em xinh đẹp ở tuổi cập kê nên đứa nào cũng ghé mắt vào, nó biết tẩy nên miễn cưỡng đồng ý.

Gia đình cô bạn gái lấy làm bất ngờ khi thấy một lũ kéo tới. Cô bạn gái của nó luýnh quýnh mang thức uống ra; cô em vọt tuốt vào phòng, bà Mẹ Bắc Kỳ xã giao hỏi các con ăn tối chưa. Tôi vọt miệng, “Dạ tính tới thăm Bác và các em xong tụi cháu mới đi ăn với nhau.” Bà già nói, “Bác còn một ít cơm nếu các cháu không chê thì ăn tối cho vui.” Tôi biết bà già chỉ xã giao thôi nhưng vì muốn câu giờ và cố tình phá thằng bạn nên nói, “Dạ, nếu Bác cho ăn thì chúng cháu khỏi đi tiệm.” Thằng Quy tinh ý đốc xúc thêm, bà già đành gọi hai cô con gái dọn bữa ăn cho chúng tôi. Cả hai chị em chắc “mắc cỡ giùm” nên dáng vẻ ra chiều miễn cưỡng. Nó ngồi đồng chịu trận. Mặc kệ, chúng tôi đã cố tình nên cứ “tự nhiên như người Hà Nội” ngồi ăn ngon lành. Thấy cơm và thức ăn gần hết mà chúng tôi có vẻ vẫn còn muốn ăn nên bà già sai mấy nhóc chạy ra quán mua thêm rồi lại mua thêm. Dĩ nhiên, bụng đã no kềnh mà vẫn vừa ăn vừa đùa nghịch vui vẻ như không có việc gì.

Một lần rồi ai cũng… tởn. Tuổi trẻ vô tư là thế, khờ dại là thế.

Vài năm sau chúng tôi cùng được lên Trung Uý, nó đã là trưởng phi cơ ở phi đoàn nó trong lúc tôi vẫn long đong phận Copilot cho tới ngày mất nước.

Ngày mất nước mạnh ai người đó thoát thân. Nó được đưa qua trại tỵ nạn Fort Chaffee, Arkansas; tôi tới trại tỵ nạn trong căn cứ KQ Eglin Air Force, Florida.

Tuần đầu tiên tôi và Phát ra khỏi trại đi làm thợ vịn cho một con chiên nhà thờ của bà bảo trợ. Nhận được thư nó gửi thăm từ trại Ft. Chaffee. Cuối tuần hai đứa được trả chung một chi phiếu 46 đô-la. Nhờ thằng con bà già ra nhà băng đổi tiền mặt đua cho bà già để phụ phần ăn uống, chỉ xin nhín ra 5 đô bỏ vào phong bì gửi nó uống cà phê. Nhưng đến khi nó ra trại và về San Antonio với chúng tôi, nó vẫn còn giữ tờ 5 đô còn mới toanh. Hỏi sao không xài. Nó nói không nỡ lòng xài phí tiền mồ hôi nước mắt của chúng tôi.

Ở San Antonio với nhau một thời gian thì mỗi người đi một ngả. Tôi đi học sửa máy bay; học nửa chừng thấy tương lai mù mịt nên bỏ cuộc, đi giang hồ, rốt cuộc về Vùng Bay Area, Bắc Cali trụ ở đây đi học xong lập gia đình. Nó cũng lang bạt kỳ hồ, có vợ rồi lại đưa nhau về San Jose.

Ở đây vợ chồng nó làm đủ mọi ngành nghề, mua nhà, và 4 đứa con theo nhau chào đời liên tục. Vừa phấn đấu nuôi dạy con cái vừa quyết tâm làm thương mại. Vợ chồng nó làm cái gì cũng lớn thuyền lớn sóng, không thành công lớn nhưng đủ sức nuôi con ăn học nên người. Bây giờ thì con cái đã xong, vợ chồng lại xông vào nghề chạy xe 18 bánh xuyên bang. Ở tuổi này mà chúng nó vẫn còn sức chạy loại xe này khiến bạn bè chúng tôi ai cũng phải cúi đầu thán phục.

Nhân buổi họp mặt của khoá ở Florida năm nay, nó book hàng đi về hướng này, chở theo đủ loại đồ ăn thức uống để khoản đãi anh em, chở luôn dàn nhạc cụ để làm văn nghệ cho đại tiệc kỷ niệm 50 Năm Khoá 4/69 SVSQKQ.

Ngoài ra, khi nào nhớ anh em phương nào, nó lại book hàng đi về hướng đó để có dịp bù khú với nhau vài hôm rồi về. Khi nào nhớ đến nó, tôi bắt phone gọi thăm. Hầu hết, nó đang lông bông trên đường ở một xa lạ nào đó dù vẫn loanh quanh trong nước Mỹ.

Đó là thằng Bắc kỳ dễ thương, một thằng bạn học của vùng đất nắng bụi mưa bùn Long Khánh, và là một chiến hữu Không Quân thân mến của chúng tôi, thuộc Trung đội người lùn; đã cùng trôi nổi thăng trầm từ quê nhà đến quê người hơn nửa thế kỷ qua.

3. Hà Quan Phát

Nó là 1 trong 5 ngũ quỷ. Dân Nam kỳ quốc, ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, nhưng gốc gác ở tận xứ Nẫu Bình Định, miền Trung, phía nam của Quảng Ngãi quê tôi.

Tôi gặp nó khi nhập khoá 4/69 SVSQKQ. Trại huấn luyện bắt xếp hàng từ thấp lên cao. Nó đứng thù lù bên tôi trong hàng quân mỗi ngày, nằm gần giường trong trại. Nó cao nhưng ốm yếu hơn tôi; về mặt đùa giỡn, phá phách thì nó thuộc hàng sư phụ. Nick name “Thuận nẫu” là do nó đặt cho tôi. Nó đặt tên với tính cách chê bai, chọc phá; suốt ngày cứ nẫu này nẫu kia khiến tôi điên người. Một hôm nó làm cho tôi điên tiết, sẵn đang lau súng, tính phang cho nó một báng súng cho chừa, nhưng nó lẹ chân chạy thoát, vừa chạy vừa tiếp tục chọc quê, khiến tôi rượt quanh mấy vòng doanh trại. Thật tình thì tôi không chịu nổi cái tính lất cất của nó nhưng lại khoái loanh quanh nghe nó kể chuyện người Miên. Vùng quê của nó rất đông người Miên nên nó có quá nhiều chuyện tếu về sự trung thực đến ngây ngô của họ. Nó nhái giọng Miên kể hoài không hết. Kể rất có bài bản, rất có duyên. Mỗi tối trước khi đi ngủ, lũ chúng tôi hay tụ tập quanh giường của nó để hóng nghe chuyện cười. Từ đó nó được tôi tặng danh hiệu (nick name) là “Phát miên” trước khi có danh hiệu “Phát volley” sau này. Cho tới bây giờ, nghề kể chuyện Miên của nó vẫn còn “manger cliente” (ăn khách) lắm, chưa có đối thủ.

Thế rồi trở nên thân thiết nhau hồi nào không nhớ.

Xong khoá quân sự, nhập khoá Sinh ngữ, cùng lều cùng trại. Sau bao gian lao học tập, nó thi đậu ra trường làm thủ tục đi Mỹ, tôi bị thiếu 1 điểm ở lại học tiếp để đêm đêm cất giọng ca não nề, “Buồn nào hơn đêm nay!”

Trong thời gian học sinh ngữ, những cuối tuần đi phép nó thường rủ tôi về nhà của Chú nó chơi, gần khu Chợ Lớn. Nhà trong một con hẻm khá lớn. Mấy lần tời chơi, nó chỉ cho tôi một người đẹp đi ngang qua nhà. Nó nói, “Đó là Dì Chín, nhà phía trong hẻm này, mỗi ngày đi làm đều đi ngang qua đây, tao muốn làm quen nhưng chưa dám.” Tôi nói, “Mầy muốn làm quen mà cứ một Dì Chín hai Dì Chín thì quen thế nào được.” Nó nói, lỡ gọi theo thằng bạn. Tôi nói mầy muốn cua nàng mà cứ Dì Chín hoài coi bộ không xuôi tai chút nào.

Trước khi nó đi Mỹ, nó chở tôi đi ngang sở làm của nàng vài lần cho biết để tôi ở nhà giúp nó “canh chừng và bảo vệ Dì Chín” giùm. Nó còn dặn đi dặn lại, “Mầy chỉ coi chừng thôi nghen, không được léng phéng là chết với tao đó.” Tôi ngó bộ dạng nó rồi cười nhạt nhưng cũng tuyên hứa bảo vệ nàng.

Thương nó nên tôi cũng loanh quanh “ngó chừng người đẹp.” Tôi không biết ngó chừng như vậy để làm gì nữa; thế nhưng mỗi lần thư về nó đều hỏi thăm nàng. Tôi có biết gì hơn, chỉ nói là nàng vẫn đi làm đều, vẫn chưa thấy cái đuôi nào mọc. Thế thôi.

Khoảng tháng sau thì tôi được Bộ Tư Lệnh gửi giấy báo đi khám sức khoẻ du học. Tôi mừng không kịp lớn.

Tôi qua tới trường sinh ngữ Quân đội ở Lackland, San Antonio, TX ở chung cư xá với nó. Vì ăn thức ăn Mỹ ngán muốn chết nên lén nấu ăn ở phòng. (Phòng cũng có nhà bếp nhưng không khuyến khích sinh viên sử dụng.) Thỉnh thoảng nó nấu ăn và tôi giữ phần rửa chén. Một thời gian ngắn nó đi trường bay Randolph, không xa trường sinh ngữ lắm. Rồi tôi cũng đến trường bay, lại ở chung, sách cũ được tái bản. Được vài tháng nó xong giai đoạn đầu đi tiếp qua trường bay Keesler, Mississippi. Rồi tôi cũng nối gót theo nó.

Qua tới trường bay Keesler nó bị ói ra mật xanh mật vàng mỗi khi máy bay nhào lộn; cấp trên cho nó nghỉ để nhập khoá kế tiếp là khoá của tôi. Khoá tôi có hai lớp, nó ở lớp khác cùng với Hoàng Hội và ở khác khu cư xá nên tôi không bị rửa chén cho nó. Nhưng… khi gần ra trường thì đổi lên khu sĩ quan ở chung. Hai đứa lại chung phòng và tôi lại rửa chén, nó nấu ăn khi có dịp.

Một hôm nó ở nhà nấu ăn chiều, tôi ra sân đánh bóng chuyền. Đói bụng chạy vào thấy nó đã nấu xong đang dọn lên bàn. Tôi xông vào ăn, nó nổi quạu đổ hết thức ăn vào thùng rác! Giận nó quá nhưng không lẽ đánh lộn, đành nuốt giận, xuống câu lạc bộ ăn tối. Nghĩ lại nó giận cũng đúng – Mình đi chơi về thấy đồ ăn là xông vào ăn liền không đợi nó. Dù vậy, phải mất mấy hôm mới ký lại hiệp định đình chiến. Cái mặt nó mà ai giận được lâu mới là chuyện lạ!

Nhờ “bà hú” nên nó vượt qua được cái bệnh ói mửa khi huấn luyện kỹ thuật nhào lộn. Nó đậu ra trường được chọn qua loại máy bay C119, còn tôi đi C123. Hai loại máy bay này đều huấn luyện chuyên môn ở căn cứ Không Quân Lockbourne, Ohio. Tôi và nó lại cũng ở chung một nơi chỉ là riêng phòng. Việc nấu nướng ở phòng cũng giảm tối đa vì phải tốn rất nhiều giờ cho việc huấn luyện.

Một thời gian sau, loại phi cơ của tôi phải đổi căn cứ về New England AFB, Alabama. Tôi với nó đã đến hạn kỳ chia tay cho đến lúc về nước.

Về nước, mỗi đứa một đơn vị khác nhau, chỉ còn gặp nhau trên tần số không lưu hoặc những ngày nghỉ hoặc ở sân tập bóng chuyền. Rồi nó tổ chức đám cưới với nàng và nhờ thằng tôi làm rể phụ.

Nó đánh bóng chuyền nổi danh Sư Đoàn 5KQ, được ông Không đoàn phó thành lập đội tuyển cho Không đoàn nên nó được cưng chiều rất mực. Vì thế, khi KQVNCH được Mỹ giao cho loại vận tải cơ khổng lồ C130A thay cho C123K, nó được ông phó mang về liền cùng với cặp bài trùng của nó là “Bé đen” và cả hai được huấn luyện thành copilot khoá sớm nhất; đó là trường hợp duy nhất. Tôi được chọn qua C130A sớm nhất, nhưng vì khá đông nên phải theo ưu tiên thứ tự. Tôi thì thích đi bay mà phải chờ đợi khá lâu nên mất kiên nhẫn và lấy làm bất bình xin đổi qua C119K, loại vận tải tác chiến tối tân nhất của KQVNCH thời đó. Tôi thích loại này vì nó được trang bị hoả lực tối đa với hai cây đại bác 20 ly 6 nòng và 4 cây đại bác Minigun 6 nòng, được điều động tới những chiến trường sôi động nhất và thường xuyên đi biệt phái xa cách “mặt trời” dễ chịu hơn nhiều.

Một thời gian sau tôi nghe đồn C130A sẽ được thay thế với C130E, tôi nhờ “thằng con cưng” này xin với ông phó về lại C130A nhưng không được.

Sáng 29/4/1975 phi trường bị pháo kích khắp nơi, không ai kịp nói với ai điều gì, tất cả các thẩm quyền bỗng dưng vắng bóng, mấy cư xá sĩ quan xôn xao chạy đôn chạy đáo tìm phương tiện thoát khỏi phi trường; nhất là sau khi chiếc Tinh Long 7 bị bắn rơi trong vòng đai phi trường, tất cả mọi người đều cố tìm phương tiện thoát thân. Đến lúc tôi may mắn chạy được bằng chiếc C130A cuối cùng rời phi trường TSN vào buổi trưa. Bây giờ ngồi nghĩ lại tôi lại thấy rất vui vì cuối cùng tôi cũng được ngồi vào ghế lái chính thức, được bay chiếc vận tải cơ tối tân nhất của KQVNCH này dù chỉ làm nhiệm vụ “thợ vịn” cho niên trưởng Phan Vũ Điện bay tới Utapao lánh nạn.

Gia đình nó gồm vợ và con bé tý chạy thoát trước, tôi may mắn chạy được cuối cùng rồi cũng gặp nhau ở Utapao, rồi qua Guam, rồi cùng nhau trực chỉ Eglin AFB sống đời tỵ nạn.

Ở Mỹ chúng tôi có chung một bà già nuôi. Bà già nguyên là phu nhân của một vị cố Trung Tá KQ Hoa Kỳ, đã bị bắn rơi trong Thế Chiến Thứ Hai, vì thế, bà rất thương Không Quân. Khi vào PX căn cứ Lackland AFB mua sắm gặp nó bà thương ngay, nhận làm con nuôi liền.

Hồi đi du học nó qua trước gặp bà ta trước. Khi tôi qua đến nơi nó giới thiệu bả với tôi và được bà già nhận chung; mỗi cuối tuần bà đều vào căn cứ rước chúng tôi về nhà cho đi chơi, khoản đãi ăn uống vô cùng tử tế. Về nước, tôi vẫn nhớ ơn, giữ liên lạc với bà dù không thường xuyên cho lắm. Trên bước đường tỵ nạn chuyển đi từ Guam qua Eglin, máy bay ghé xuống phi trường Honolulu, tôi gọi phone cho bà già, nhờ bà bảo trợ cho cả hai gia đình để sớm được ra khỏi trại tỵ nạn. Bà vui mừng nghe tin và hứa sẽ làm hết mình để đưa chúng tôi về San Antonio với gia đình bà Cụ.

Ở trại tỵ nạn không lâu, thấy người ta nhộn nhịp đến xin bảo trợ, tôi cũng gọi điện thoại thúc giục bà già. Một buổi sáng mai, có người vào phỏng vấn gia đình nó tại lều, xin được bảo trợ vì gia đình có con nhỏ được ưu tiên. Tôi ngồi đó nghe ké. Khi nghe thằng Mỹ muốn đem vợ chồng con cái nó về nông trại, cho nó bay loại cessna rải thuốc rầy, vợ nó lo việc dọn dẹp nhà cửa hằng ngày cho tươm tất, mỗi tháng họ sẽ trả cho nó 500 đô-la, bao luôn nhà ở.

Tôi nghe tới đây nổi giận đùng đùng, đuổi thằng Mỹ ra khỏi phòng, nói, “Chúng tao là người tỵ nạn, là người có học thức, chứ không phải là thứ nô lệ rẻ tiền. Tụi tao không muốn nghe mầy nói thêm bất cứ điều gì, đi ra ngay lập tức, đi ngay!” Thằng Mỹ hoảng hốt rút lui mà tôi vẫn còn giận. Nó nói họ bảo trợ gia đình nó chứ đâu phải là tôi mà nổi nóng dữ vậy? Tôi nói, “Mầy nỡ lòng nào cho vợ mầy quét dọn như một con nô lệ da đen, trong khi nó mướn mầy về đi bay cho nó chứ đâu phải ở đợ đâu mà trả rẻ mạt như vậy. Thôi dẹp cái ngữ đó đi. Hơn nữa, bà già nuôi cũng sắp đem tụi mình ra khỏi trại rồi, đừng nghe mấy thằng bảo trợ bá láp như vậy nữa!”

Ngày 26/5/1975, Thứ Bảy, chúng tôi được bà già nuôi bảo trợ đem về San Antonio. Chủ Nhật theo bà đi lễ. Sau khi Lễ xong, bà móc nối với một con chiên nhà thờ cho chúng tôi theo làm thợ vịn sửa nhà cửa. Cả hai chúng tôi ngoài đi học, đi lính ra có đi làm bao giờ đâu mà có nghề với ngỗng. Thứ Hai hôm sau, con chiên tới chở hai đứa tôi đi làm. Cả hai như thiên lôi chỉ đâu đánh đó vậy mà thằng chủ hài lòng ra phết, khen chúng tôi khéo tay và thông minh. Tôi rủa thầm trong lòng, “Mẹ, chúng tao không thông minh, không khéo tay làm sao trở thành phi công được huh thằng khỉ gió.” Nghĩ thì nghĩ như vậy chứ cũng biết thân. Cố gắng làm tốt để nó còn mướn lâu dài.

Làm cho thằng này là vì nó muốn giúp chứ công việc đâu có nhiều. Mỗi ngày làm chỉ mấy tiếng là hết việc. Cho tới cuối tuần nó phát lương, hai anh em được trả chung một chi phiếu 46 đô-la! Cầm cái check trên tay tôi chợt bâng khuâng nghĩ tới số tiền $500 mỗi tháng cho gia đình nó (để đi bay và làm người ở,) bất giác có chút phân vân, áy náy… nhưng chợt thấy vui trong lòng vì nghĩ tôi đã ra sức bảo vệ gia đình nó, danh dự cho nó. Check lương dù ít nhưng cũng rất hãnh diện là tự tay chúng tôi đã làm ra tiền; đem chi phiếu về nhờ thằng con trai bà già đi nhà băng đổi giùm để đưa phụ tiền ăn cho bà già. Dĩ nhiên bà già không lấy. Chúng tôi dùng tiền để đi chợ mua thức ăn cho hai gia đình chúng tôi. (Hồi đó đi chợ 20 đô-la là thức ăn ê hề, chất đầy xe đi chợ.)

Sau một thời gian ở San Antonio thấy không có tương lai, nên chúng tôi hỏi thăm được người ta mách lên sở xã hội sẽ được giúp nhiều thứ. Về nhà nói với bà già, liền bị bà và thằng con trai nổi giận. Bảo chúng tôi, khi nào còn ở với bà thì đừng bao giờ nói tới việc xin welfare, Food Stamps. Nhưng rồi tôi cũng lén đi, hỏi thăm… họ cho biết là họ có thể cấp welfare và food stamp cho chúng tôi tạm sống. Nhớ lời bà già và thằng anh nuôi, tôi nói tôi chỉ muốn đi tìm việc làm thường trực. Họ chỉ tôi qua sở tìm việc. Ở đây tôi gặp những người chủ nông trại đang muốn tìm người giúp việc. Tôi cho họ biết hoàn cảnh của chúng tôi, họ nói họ giúp được. Nếu chúng tôi chịu về nông trại ở với họ, họ sẽ cung cấp nhà ở, xe cộ và trả lương đàng hoàng. Tôi hẹn với họ gặp lại ngày hôm sau. Về nhà, tôi đem chuyện bàn với nó, nó đồng ý. Chúng tôi cùng xin với bà già cho chúng tôi về nông trại làm việc. Bà và ông con trai buộc lòng phải đồng ý, nói là tạm thời cứ làm vậy, rán dành dụm một thời gian nên về ở phố. Thế là gia đình nó dọn đi theo một chủ nông trại và anh em tôi đi với một ông khác; nông trại của hai ông không xa nhau bao nhiêu.

Mỗi cuối tuần, tôi đều chạy xe qua nông trại thăm nó. Nó cho biết mỗi ngày chạy máy cày, vợ giúp ít việc nhà, đời sống tạm ổn. Nó cười nói với tôi, “Trong trại người ta mướn tao về bay rải thuốc mầy không cho, bây giờ tao phải chạy máy cày mà vợ tao cũng phải giúp việc nhà cho họ vậy.” Tôi ngọng không trả lời nó được nhưng sao lòng không thấy ân hận chút nào.

Đời sống khó nhọc quá, ai cũng vất vả lo cho tương lai nên sự thăm viếng càng thưa dần. Làm nông trại anh em tôi không chịu nổi, đi làm hãng xe hơi cũng không xong, kéo nhau bỏ ruộng về thành phố xin việc. Một thời gian sau nó cũng về lại San Antonio tìm được việc mới.

Thêm một thời gian nữa, tôi rời San Antonio đi học rồi đi giang hồ, tìm sinh kế; nó cũng dọn đi Tennessee theo lời mời gọi của một người bạn khác… Anh em chỉ còn liên lạc lai rai để còn biết nhau hiện hữu.

Bẵng đi một thời gian khá lâu, sau bao nhiêu đổi thay trong cuộc sống tỵ nạn, khi công việc làm ăn buôn bán không suôn sẻ ở California, gia đình tôi dọn lại về Houston, TX gặp lại nó. Đời sống nó đã khá ổn định, con cái học hành ngon lành. Riêng gia đình tôi chưa được may mắn, còn tần tảo với cuộc sống nên dời đổi liên miên. Cứ qua lại Houston-Cali mấy lần như vậy, tôi quyết định trụ luôn ở Houston khi vợ chồng tìm được công việc thích nghi, và tương lai tương đối ổn định.

Dường như số phận của tôi với thằng phải gió này trói buộc nhau nên sau bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời… rốt cuộc vẫn còn bên nhau. Từ hai thằng xa lạ, mặt trắng tay trơn, sém đánh lộn của hơn 50 năm trước… bây giờ đã bầu đoàn thê tử, lưng còng tóc bạc vẫn còn ở gần nhau nơi quê hương thứ hai.

4. Đặng Phước

Nó là một trong bốn thằng bạn thâm giao của tôi; là con dân Quảng Ngãi, là một cựu học sinh trường trung học danh tiếng của tỉnh – Trường Trần Quốc Tuấn, ngôi trường đã đào luyện khá nhiều tinh hoa của xứ Quảng.

Tôi cũng được sinh ra ở Quảng Ngãi nhưng chỉ có ở vỏn vẹn 10 năm rồi theo ba mẹ vào Nam để cùng với anh em cày sâu cuốc bẩm, xây dựng tương lai.

Nó vào Đại Đội 44 sau Đại Đội 43 của tôi mấy hôm. Dù chung một Tiểu đoàn nhưng hai Đại đội có hai chương trình huấn luyện song song nên dù có biết nhau cũng chỉ sơ giao, phận ai người ấy lo. Khi mãn khoá Quang Trung cùng về đạp cỏ “khu nhà ma”, mỗi khi được dịp là đứa nào cũng mắt trước mắt sau biến mất. Một thời gian ngắn vào trường học sinh ngữ cùng khoá chỉ khác lều trại, cho tới khi ra trường đi du học Mỹ mỗi đứa một ngành; hắn trúng tài khoá “lên thẳng” đi một nơi, tôi được “cánh quạt” đi một ngả, vẫn ở mực sơ giao dù có biết thêm về hắn là dân Quảng Ngãi chính hiệu con nai vàng và hắn biết tôi cũng… nẫu như hắn… và chỉ có vậy.

[Hồi đó, đối với dân Nam kỳ quốc thì ai người Trung chúng nó đều gọi chung là “nẫu”. Nẫu với lũ này có nghĩa là “nhà quê”. Chính gốc “nẫu” phải là dân Bình Định. Người Bình Định dùng “nẫu” là ngôi thứ ba. Phần đất Quảng Ngãi gần Đèo Bình Đê, giáp ranh giới Bình Định cũng nói ngôn ngữ này.]

Sau khi ở Mỹ về, trong một chuyến bay chở tiếp liệu cho chiến trường Miền Trung, tôi dừng ở phi trường Nha Trang tình cờ gặp lại hắn. Lâu quá mới gặp lại nhau, hai nẫu líu lo mừng vui ra chiều thân thiết. Kể từ đó, tôi có dịp đi Nha Trang lại tìm hắn, lại đàn đúm với nhau khi có dịp.

Dường như nhu cầu chiến trường lúc đó cần hơn nhu cầu bạn bè nên lại mất dấu nhau sau một thời gian ngắn. Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi rất thường bay tiếp tế và chở quan tài anh em bộ binh đưa về cố xứ của họ, tôi lại gặp hắn ở phi trường Đà Nẵng. Hắn cho biết là đổi về Đà Nẵng khá lâu rồi. Gặp nhau được vài lần thì đời bay bổng của tôi thay đổi. Tôi rời C123 qua C130 rồi đổi sang AC119K vận tải tác chiến.

Khi chiến trường miền Trung sôi động, AC119K được lệnh biệt phái yểm trợ ở hai căn cứ Phù Cát và Đà Nẵng, tôi liên tiếp xin đi biệt phái, tránh xa mặt trời vui hơn.

Lần đầu tiên đi Đà Nẵng, tôi tìm gặp hắn tại khu cư xá sĩ quan độc thân. Nhưng hắn bay ban ngày tôi thì ban đêm nên chỉ gặp nhau nếu trùng ngày nghỉ hoặc những ngày hắn được về sớm. Hồi đó, lương tháng chúng tôi giống nhau nhưng không biết sao hắn có vẻ rủng rỉnh hơn tôi nhiều, nên thường hào sảng bao tôi ăn uống. Con nhà nghèo mà được đãi ngộ mừng muốn chết! Hơn nữa, ở Đà Nẵng hắn là thổ địa nên dẫn dắt tôi khắp nẻo đường thành khi có dịp.

Có một lần, hắn đưa tôi tới giới thiệu cô bạn gái của hắn. Cái lần gặp gỡ này để lại cho chúng tôi một kỷ niệm dù có muốn quên cũng không thể quên được sau gần 50 năm dài.

Cô bạn gái vui vẻ chào đón chúng tôi, cho biết nàng sẽ đãi chúng tôi một chầu Cua Rang Muối do chính cô ấy làm. Cua Rang Muối mà nhậu với Bia 33 thì còn gì bằng. Chúng tôi kiên nhẫn ngồi chờ với cái bụng đói meo. Khi Cua Rang Muối được nàng “hồ hởi phấn khởi” dọn ra thì ô hô ai tai, cả lũ chưa kịp mừng đã bị phỏng lưỡi! Không phải vì đói ăn gấp mà vì công thức làm cua rang muối của nàng quá sức đặc biệt – bỏ cua rang chung với vài lon muối hột – báo hại chúng tôi phải phải mò ra phố tìm cái ăn.

Vì sự thân thiết với hắn càng ngày càng sâu đậm nên những lần biệt phái sau này tôi hay tình nguyện đi Đà Nẵng, chiến trường mà hầu hết ai cũng muốn tránh nếu có thể được trong thời gian đó.

Thân thiết đến nỗi hắn cho tôi theo hắn bay hành quân nhiều lần, nhiều nơi. Hắn hăm tôi, “Nếu bị bắn rớt thì chắc trên hai quan tài của tao và mày sẽ bị dán giấy phạt thay vì được vinh thăng.” Hắn cho tôi ngồi vào ghế Copilot, cứ chơi cái trò bay sát ngọn cây cho tôi sợ, giở chân lên làm trò cười cho tụi hắn. Những lúc thuận tiện, hắn dạy tôi bay trực thăng. Rất tiếc, lúc tôi hover gần được thì không còn cơ hội. Bay trực thăng có lẽ khó nhất là hover. Có hover được thì mới cất cánh và hạ cánh được.

Ngày 25/3/1975, tôi theo hắn bay phi vụ yểm trợ – ở quê hương Quảng Ngãi của chúng tôi – để các chiến hữu bốc ông Tỉnh trưởng Quảng Ngãi bị VC bao vây trên đỉnh núi. Xong nhiệm vụ đó, tôi năn nỉ hắn bay về Sông Vệ khu nhà Chú Út của tôi, tính nhờ hắn bốc gia đình chú ra tỉnh lánh nạn, nếu có thể; nhưng khi đến nơi, liên lạc quân bạn ở dưới đất mới biết là vùng vừa bị VC chiếm. Hắn cũng lì lợm lắm nhưng không thể xuống được. Tôi lại nói hắn bay ngang qua nhà cô bạn gái trên thị trấn Sông Vệ. Nó bay quần vài vòng xong thẳng đường về lại căn cứ. Toàn tỉnh Quảng Ngãi bị chiếm trong ngày.

Ngày 27/3/1975, buổi trưa, tôi xấc bấc xang bang rời Đà Nẵng nhưng không tìm được hắn. Trên đường về Saigon, tôi buồn rầu nghe trên tần số biết Phi Trường Đà Nẵng đã mất kiểm soát. Lòng tôi buồn vời vợi không biết tình cảnh của hắn ra sao, có thoát được không.
Giữa tháng 4/1975, tôi vui mừng đón hắn về tới Saigon. Hắn nói sẽ ở tạm với tôi trong cư xá Sĩ Quan độc thân, ngày ngày đi trình diện chờ lập thủ tục đưa về Vùng 4.

Chiều 27/4/1975, hắn được tin “bà xã tương lai” – cô nương Cua Rang Muối – chạy về từ Đại Học Đà Lạt, hắn nói hắn phải ra ngoài phố với nàng. Thế rồi lúc tôi chạy khỏi Saigon, buổi trưa ngày 29/4/1975, hắn ở lại với người yêu.

Không nhớ là bao nhiêu năm sau bất ngờ tôi nhận được thư hắn, nói bóng nói gió… trốn trại cải tạo, tìm cách vượt biển, rồi ở tù, rồi vượt biển, rồi bặt tăm. Cho tới một ngày tôi vui mừng nhận được tin hắn đã qua tới trại tỵ nạn, gửi giấy tờ để tôi giúp làm thủ tục bảo lãnh cho hắn và đứa con trai nhỏ. Không biết sự giúp đỡ của tôi có làm cho tiến trình định cư ở Mỹ của hắn nhanh hơn không thì không biết; rồi lại nghe vợ và con gái lớn của hắn cùng sum họp chung trại tỵ nạn. Thật là vui mừng khôn xiết.

Ngày gia đình hắn tới Oakland, California tôi đón và đưa về ở trong apartment 3 phòng ngủ của tôi. Sau đó không lâu, hắn xin được trợ cấp nhà ở của chính phủ nhưng không đủ nên phải trả thêm cho tôi một số tiền nhỏ sai biệt một thời gian, quên mất không biết bao lâu.

Vì qua trễ, hắn cố gắng tối đa “cày sâu cuốc bẫm” để lo tạo dựng cuộc sống mới. Phải công nhận những người đã sống khốn khổ trong xã hội cộng sản đến khi họ có cơ hội thì không nề gian khó. Không bao lâu hắn đã mua được nhà riêng và gia đình tôi lại thêm một lần nữa dọn đi Texas.

Bây giờ thì hắn khoẻ rồi, khoẻ hơn tôi nhiều. Trong khi tôi còn bon chen, vật lộn với cuộc sống hắn đã nghỉ hưu sau khi hai đứa con thành công tốt đẹp trong học vấn và nghề nghiệp. Công việc của vợ chồng hắn bây giờ là vui thú điền viên và làm ông bà nội, ngoại. Hắn dọn về San Diego, thành phố lớn cực nam của tiểu bang California, nơi khí hậu ôn hoà, bốn mùa cây cỏ xanh tốt.

Nhưng cho dù thế nào, hắn vẫn chưa thể thoát khỏi tôi. Hắn ở đâu tôi cũng tới ngủ nhờ, làm phiền. Lúc nào vợ chồng hắn cũng vui vẻ đón tiếp tôi vô cùng tử tế làm tôi có hơi áy náy là khi hắn “one leg wet one leg dry” (chân ướt chân ráo) mới qua mà tôi không có điều kiện tốt hơn để giúp đỡ hắn như những người tới trước.

Tôi mừng cho hắn; hãnh diện về hắn. Hắn rất xứng đáng vui hưởng thời gian còn lại của cuộc đời. Ông bà ta nói đúng, “hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai.”

Đoạn Kết:

Hiện tại ngũ quỷ chúng tôi cùng già ngang nhau, sức khoẻ dù có khác nhau nhưng vẫn còn xoay xở được. Đứa ở San Diego giữ cháu, đứa ở Seattle dưỡng bệnh, đứa ở San Jose vẫn đang làm tài xế xe 18 bánh trên đường, thằng Miên phẻ re làm đại sứ lưu động cho các con ở tam giác Houston-San Antonio-Austin và tôi vẫn còn hăng tiết vịt, có trường dạy võ cho cộng đồng thế giới. Lâu lâu tôi nhớ đứa nào đến thăm đứa đó. Chúng nó, mỗi đứa dành tình cảm cho tôi bao nhiêu không là vấn đề, chúng nó bị tôi làm phiền bao nhiêu tôi cũng không quan tâm, nhưng tôi biết là tôi vẫn thương, vẫn trân trọng chúng nó như tình anh em ruột thịt. Bạn một lần giữ một đời. Cầu mong chân cứng đá mềm để mỗi chúng tôi sống an vui với phần đời còn lại.

Và một điều chắc chắn là chúng nó không thể thoát khỏi thằng tôi; ngày nào sức khoẻ tôi còn tốt, nhất định ngày đó tôi vẫn sẽ tiếp tục làm phiền chúng nó.

Kingwood Tháng 10/2019


CONFIDANT – COMRADES-IN-ARMS

Introduction

This is a series of writings about four buddies who were, in a sense, “raised in the same diaper” with me. The five of us came from all three regions of Vietnam, all of us were in Republic of Viet Nam Air Force. One from the North origin, one from the South, and three from the Central region. Three studied at the same school; all five were joined Air Force at the same time. Started military training at the same time although there are 2 different units. We were so close that at times I felt as if they were my very own flesh and blood.

After all the ups and downs of our lives, we are now all in America – each in a different state – but still in touch, still visiting when possible. At our age – grandparents on both sides already – yet the moment we reunite, we slip right back into the “mầy tao” tone of our teenage years.

We joined the Air Force Officer Candidate Class 4/69 of the Republic of Vietnam Air Force, entering the Quang Trung – Nguyễn Huệ Battalion, whose motto was “Live Strong, Live Mighty,” in early June 1969. The battalion was commanded by Major Trần Văn Hiến, notorious as the most “scary and fearsome” officer in the entire Quang Trung training center. Even before entering the course, we heard terrifying rumors, “Prepare your mind, prepare your body,” if you wanted any chance of surviving the three months of boot camp. They also whispered that the authorities of that battalion didn’t particularly like the Air Force cadets.

Indeed, that “live strong, live mighty” part we never saw – but the part about being ground to dust, we felt immediately. Every afternoon, dragging our exhausted bodies back from the training field – breath ragged, starving, limbs like jelly – we still had to run “salute laps” around the enormous compound before we were allowed to shower, eat, and collapse into sleep.

I remember one day when Long “the Fat One” – who had been assigned as company flag bearer – got sick and stayed off the field. I was ordered to carry the flag in his place (punishment for being tall and sturdy). On the run back, wanting to “show off,” I led the company straight into formation after only one lap – only to stumble right into an officer (“the big boss”) waiting for us. As a result, the entire company was punished with extra laps, and afterward, I alone was made to scrub the courtyard until the cement shone, to “teach me a lesson.” The whole company hated me; I, in turn, silently cursed the “big boss” to the heavens… but didn’t dare make a sound.

Thirty-some years later, after losing our wings and ending up scattered around the world, I met that “big boss” again at our class’s 40-Year Reunion. Out of mischief, I asked him, “Sir, why were you so fearsome with us back then?” He coolly laughed and said, “You Air Force fellows – if we didn’t put the hammer down immediately, didn’t enforce iron discipline, who could control a bunch of ‘sons of heaven’? Only through hardship can you be worthy of serving in a heroic branch of the military.”

In the following pages, I introduce – chronologically – each of the “Five Devils of the Martial World,” as we were once nicknamed.

strong>1. Huỳnh Quy

I came from Võ Đắt – red soil, dust, sun, mud – transported to a provincial town not much different, Long Khánh, to attend 10th grade at the Public High School. That was where I met him.

I can’t remember exactly when or how we became friends. He was in the B track of mathematic; I was in the A track of biology. A country boy transplanted into a district capital carries his share of insecurities, so I buried myself in books. I had come with three other friends from hometown and felt no need to make new ones.

In 11th grade, the three friends who had come with me enlisted. Another younger student rented a room with me. Who knows by what twist of fate Huỳnh Quy ended up renting and living with us – despite having his own home, his mother, and siblings living nearby.

He was pure-blooded Huế; I was pure-blooded Quảng Ngãi. Yet somehow, inexplicably, we got along and lived in perfect peace. He was generous, good-hearted, loyal to friends – but extremely fastidious. I was the type of clean and orderly person, but compared to him, I still not good enough. The smallest thing out of place, and he would grumble for a long time.

We went through several years of student life this way – always close, even as we moved from one rented place to another. Eventually, tired of studying, I “abandoned the riverbank and the boat” and enlisted in the Air Force. A week later, he followed suit. I was assigned to Company 43 at Quang Trung; he arrived a week later in Company 44 – same battalion, same motto.

After the first week, rumors spread of a “meningitis outbreak.” The Medical Corps herded both companies into the yard and told anyone who felt a headache to step aside. I don’t know whether he misheard or misaligned himself, but he ended up in the group being examined. After a long, thorough search yielded no illness whatsoever – it was already too late for him to continue with our course. He was rolled into the next batch… and eventually sent to the Thủ Đức Military Academy to become an Army officer, while I remained an Air Force cadet until the day I returned home from abroad pilot training course.

After our various military assignments, when I came to Squadron 821 “Tinh Long,” flying AC-119K gunships, I found him again. We rented a house together for years until he married, and I was staying in a single officer’s room on base.

We shared countless memories, but one stands above the rest.

I once begged to borrow his brand new Honda ‘68 to visit my elder brother in the Rangers stationed in Hậu Nghĩa – partly to show off. He knew I drove like a maniac, so it took many rounds of pleading before he agreed. Even then, he handed me the key only after repeating five times, “PLEASE drive carefully. I just asked Mạ for money to buy this bike.”

I promised on all the gods.

The trip out was fine. My brother was thrilled to see me; proud, even. He threw a feast, and we drank ourselves blind. At dusk, I staggered onto the motorcycle, completely forgetting my promise, wobbling like a drunk bird – but somehow made it back to Saigon. Only when I sobered up did I really look at the bike.

Oh. My. God.

Dented everywhere.

Terrified, I rushed it to a repair shop, begged them to fix it as fast as possible, and agreed to pay extra. It still took several days. Meanwhile, when I came back home with him, he kept nagging, complaining, lamenting – until I wanted to dig a hole and crawl in. When I finally returned the bike, he continued “singing” until the imaginary vinyl wore out and the phantom needle broke!

He had the best heart of us all – but extremely impossible when irritated. And who could blame him? If he’d unleashed a dog to bite me, it would still have been fair. The fault was a thousand percent mine. Still, we remained inseparable – until he married, and I still stayed a happy bachelor in the single officers’ quarters. From then on, our lives drifted apart naturally.

On April 29, 1975, I escaped to U-Tapao, Thailand. He got stuck, went to prison, returned to Long Khánh after years of hardship, then made it to America under the H.O. program, settling in Seattle. I was overjoyed when I heard he had made it to freedom, but life kept us busy. We met again only briefly years later. With hard work and perseverance, he built a stable life for his family after all.

Now retired, with grown children in good standing, he carries the lasting toll of years in re-education camps and the harsh struggle of rebuilding life in America. He lives in gloomy Seattle; I live in sun-scorched cowboy country – so visits are rare. Our affection survives through phone calls and the occasional visit.

2. Hoàng Văn Hội

When I enlisted, he and Huỳnh Quy were still in school. Once my security clearance came through, they both were followed – joined Air Force. In Long Khánh – besides Nguyễn Gia Tập, who had joined the Air Force earlier – a whole flock of our former classmates followed: Hội, Quy, Hữu, Tùng, Hồng, Gia Cần, Gia Học.

In high school, I only vaguely knew Hội. He was in the B track, I in A. He was a northern origin “water-spinach-eating” kid; I was a central “chili-eating” boy. His family lived by the railroad near Gate 6 – not far from my lodgings – but we didn’t see each other much. But eventually became friend even it was not as close as Huynh Quy.

In Saigon, he had a well-off cousin near Ông Tạ intersection. When we met again in the Air Force, he dragged me home to ask his cousin to let me stay while we waited for processing into Quang Trung and then for our departure to the U.S. for pilot traing session. His cousin, fond of him and generous to his friends, welcomed me despite already having six children in the house. The two eldest were in religious orders; the other four were lively, mischievous – two of whom later joined the Air Force as well.

We stayed in a rooftop room on the third floor – free to come and go, sing, joke, or make noise at all hours.

We entered Class 4/69 together at Quang Trung – same company, 43, same battalion. Two hundred students from all various of life. They lined us up by height, divided into four platoons. He was in the “Dwarf Platoon,” and I was in the “Elephant Platoon.”

We finished Quang Trung, trained in English together, graduated, went to America for pilot training together, entered flight school together – though in different classes. After flight school, he was assigned to fly the old C-47; I was assigned to the larger C-123.

Back home, we were in different squadrons, each busy with our own duties; however, we still live together at the same old place, be able to hang around together when we had chances.

One memory stands out unforgettable to everyone involved.

One fine day, Quy and I invited him to dinner – everyone had a day off from flying. Afterward, we suggested visiting his girlfriend. She had a younger sister – lovely, just of blossoming age – and all of us had our eyes on her. He knew our tricks and reluctantly agreed.

Her family was stunned to see a whole gang showing up. His girlfriend hurried to bring refreshments; the younger sister dashed into her room; the mother – classic northern politeness – asked if we’d eaten. I blurted out:

We planned to visit you first, Bác, then go to eat afterward.”

She said, “I still have some rice. If you boys don’t mind, stay and eat with us.”

I knew it was mere politeness – but wanting to tease him, I said:

“If Bác insists, we don’t have to go to the restaurant afterward.”

Quy picked up the cue. The poor mother had no choice but to have her daughters set the table. Both girls were embarrassed, displeased even. He sat there, mortified. We, shameless as ever, ate heartily, joked loudly, “as naturally as true Hanoians.” [tự nhiên như người Hà Nội]

When the dishes grew scarce, the mother quietly sent the kids to buy more… and then more. We ate until we were so stuffed, so filled.

One time was enough to make everyone learn their lesson. Youth – carefree, foolish, unforgettable.

Years later, we were promoted to First Lieutenant. He became aircraft commander in his squadron; I remained copilot in my place until the day the country fell.

When Saigon collapsed, each of us fled away as we could. He ended up in Fort Chaffee, Arkansas; I was taken to the refugee camp at Eglin Air Force Base in Florida.

During my first week out of camp, working as a construction helper with Phat for a church member of my sponsor, I received a letter from him. That weekend, Phát and I earned a shared paycheck of $46. We asked our sponsor’s son to cash it, gave almost all to our sponsor for food, and spared $5 to send him “for coffee” in the camp.
When he finally left the camp and came to San Antonio to join us, he still had that five-dollar bill, crisp and untouched. I asked why he hadn’t spent it. He said, “I couldn’t bring myself to waste the sweat of you two.”

We lived together in San Antonio for a while, then scattered. I went to study aircraft maintenance, then quit at halfway, drifted around, finally settled in the Bay Area, finished school, and married. He wandered too, married, and eventually moved to San Jose.

There he and his wife worked so hard in many different job, bought a house, and raised four children, who were borned every year. They struggled, they built businesses – not that much successful, but enough to raise all their children well. Now that the kids are grown, the two of them drive an 18-wheeler cross-country. At this age, the fact that they still have the stamina amazes all of us.

For the class reunion in Florida, he scheduled his trucking routes so he could come that way – carrying food, drinks, even musical instruments to entertain everyone for our 50th Anniversary celebration. Whenever he wanted to see any of us, he books a route toward our place to visit.

Whenever I miss him, I make a phone call – and he usually picks up from some strange places in some different state.

That is our lovable Northern origin friend from dusty, rainy Long Khánh – our dear Air Force comrade, member of the “Dwarf Platoon,” who has drifted with us from homeland to a refugee’s life in foreign country for over half a century.

3. Hà Quan Phát

He is one of the Five Devils. A southern boy, from Sóc Trăng – Bạc Liêu, but his roots stretch back to Bình Định – the southern tip of my own Quảng Ngãi homeland.

I met him entering Class 4/69 RVNAF. They lined us up by height; he stood right beside me every day, slept on the next cot. He was tall but skinny; when it came to joking, teasing, mischief – he was a grandmaster.

He gave me the nickname “Thuận nẫu,” mocking my Quảng Ngãi heritage in a jokingly manner. He threw the word “nẫu” at me all day long until I nearly went insane. One day, he pushed me too far while I was cleaning my rifle, I wanted to hit him with the rifle buttstock, but he was quickly darted away, laughing, still taunting, so I chased him around the compound like a madman.

Truth is, I couldn’t stand his constant pranks – but I loved listening to him whenever he told the Khmer’s stories in his hometown. His village had a large Khmer population, and he had endless hilarious anecdotes about their innocent honesty. He imitated their accent perfectly, with such charm and comedic timing that every night before bed, the rest of us would gather around his cot for storytime.

I gave him the nickname “Phát Miên” long before he earned his later title, “Phát Volley.” Even today, his Khmer storytelling skills still “draw crowds” – no one else could be better.

Somehow, without noticing when, we became inseparable.

We survived military boot camp, then English school – same tent, same barracks. After arduous study, he passed his exam and prepared to go to the U.S. for the pilot training session; I failed by one point and stayed behind, singing the mournful song “What sadness surpasses tonight,” [Buồn nào hơn đêm nay].

During our English training, he often dragged me to his uncle’s house near Chợ Lớn on weekends. The house sat in a large alley. Several times visiting, he pointed out a beautiful young woman walking past, “That’s Dì Chín. She works nearby. I want to talk to her, but I don’t dare.”

I said, “You want to court her but keep calling her ‘Auntie Chín’? That’ll never work.”

He said that was just what his friend called her. I told him if he planned to woo her, he’d better drop the “Auntie” nonsense.

Before leaving for America, he rode me past her workplace a few times – so I could “keep an eye on her” while he was gone. He even warned me. “You only WATCH, okay? No flirting. If you flirt her, I’ll kill you.” I looked at him and laughed but promised to “look out on her.”

Out of affection for him, I really did keep an eye out – though for what purpose, I’ll never know. Each letter he sent from America to me, he kept asking me about her. I never had much to report, “She still goes to work. No boyfriend trailing her yet.”

A couple months later, I received orders from the Air Force Command to go abroad for pilot training as well. I was overjoyed.

I arrived at the Military English school in Lackland, San Antonio, and moved into the same dormitory at where he at. American food was unbearable, so we secretly cooked in our room. Whenever he cooked; I washed dishes. Most of the time, he intentionally left a mess just for me to clean up.

After finished English school, he wen on to Randolph Flight School – not far. Then soon after, I joined him. We lived together again – same old story – he cooked, left a mess and I washed and clean up.

After graduated from the basic flight school, he progressed to the next phase at Keesler Air Base, Mississippi. A couple months after, I followed.

The flight training course at Keesler, he vomited violently during aerobatic maneuvers – bile and all – so the instructors deferred him to the next class, which was mine. There were two separate classes; he was in the other, with Hoàng Hội. We stayed in a different dorms, that meant, I didn’t have to wash his dishes. But near graduation, we were moved to the officers’ quarters. Back together again. And yes, the old story was repeated. We were both singing the old song.

One day he cooked dinner; I was out playing volleyball. Hungry, I rushed in, saw the foods already on the table and began eating immediately. He blew up, dumped the entire meal into the trash! I was furious, but what could I do – fight him? I swallowed my anger and walked off to the officer club for dinner.

Thinking back, he had reason. I barged in and ate without a word. Still, it took days before we “signed the ceasefire treaty.” With a personality like his, who could stay mad long? His stubbornness was legendary – but so was his loyalty, humor, and warmth.

Thanks to “bà hú,” [surprisingly] he managed to overcome the motion-sickness that had plagued him during acrobatic-flight training. After graduation, he was assigned to the C-119, while I went to the C-123. Both aircraft required specialized training at Lockbourne Air Force Base, Ohio. Once again, he and I ended up in the same place – just different rooms. We hardly cooked anymore, since most of our time was spent by the training.

Few months later, my aircraft type was reassigned to New England AFB in Alabama. That was when he and I had to part ways until we returned to Việt Nam.

Back home, we were posted to different units but both were stationed not too far from each other. Although, most of the times we ran into each other over the radio frequencies, on occasional days off, or on the volleyball court.

He eventually married his sweetheart, and I served as his best man. He became famous as one of the star volleyball players of the 5th Air Division, so much so that the Deputy Wing Commander – who adored this sport – favored him greatly. Because of this special treatment, when the RVNAF began transitioning from the C-123K to the massive C-130A, he and his inseparable partner “Little Blackie” were pulled into the program immediately and trained early as copilots – unprecedented, they were the only pair treated that way.

I was also selected for the C-130A, but there were many pilots need to be trained and based on seniority, I had to wait. I was eager to fly, and the long wait frustrated me. In my impatience, I requested to switch to the AC-119K – the most advanced gunship in the RVNAF at that time. I loved the aircraft’s heavy firepower – two 20-mm six-barrel cannons and four six-barrel Miniguns. It was always deployed to the hottest battlefields and often sent on detached missions far from “the sun” – which, frankly, suited me better.

Later, I heard rumors that the C-130A would soon be replaced by the C-130E. I asked him, the “pampered son” to ask the Deputy Wing Commander to bring me back to the C-130A program, but he couldn’t get it approved.

On the morning of April 29, 1975, the airbase came under heavy shelling. No one had time to say anything to anyone; authorities had vanished; the officers’ quarters were in chaos as people scrambled for a way out. After a Tinh Long 7 gunship was shot down inside the perimeter of Tan Son Nhut Air Base, everyone desperately searched for an escape. I was fortunate enough to board the very last C-130A leaving Tân Sơn Nhứt around noon. Looking back now, I find a strange joy in knowing that I at least got to sit in the co-pilot’s seat of the most advanced transport aircraft in the RVNAF – even it only as a “helper copilot” assisting Senior Pilot Phan Vũ Điện on our escape flight to U-Tapao.

Phat with his wife and little daughter had escaped earlier. I was lucky to get out last. We reunited at U-Tapao, then moved to Guam, and eventually ended up at Eglin AFB as refugees.

In the U.S., we shared the same foster mother. She was the widow of a U.S. Air Force Lieutenant Colonel who had been shot down in Korean War. Because of that loss, she adored airmen. When she ran into him at the PX in Lackland AFB, she happened to like him and willfully adopted him as her foster son. When I came later, he introduced me to her, and she took me in as well. Every weekend she would drive onto base to pick us up, bring us home, feed us, and take us out with unbelievable kindness. After we returned to Việt Nam, I still kept in touch with her – though not as often as I should have.

During our refugee journey – from Guam to Eglin AFB – the plane stopped in Honolulu. I called her and asked if she could sponsor both our families so we could get out of the refugee camp sooner. She was delighted and promised to do everything she could to bring us to San Antonio as soon as possible.

While in the refugee camp, one morning, a man came to our tent to interview his family. Since they had a young child, they were prioritized. I was sitting nearby and overheard. The white American farmer told him he wanted to sponsor his family to his farm. The mas said that he would train Phat to fly a Cessna for crop-duster, his wife would help cleaning the house daily, and they would be paid $500 a month with housing included.

Hearing this, my anger exploded. I chased the guy out, saying, “We are refugees – educated people – not cheap labor. We don’t want to hear another word from you. Get out. Now!”

The poor man fled, terrified. My friend said, “They’re sponsoring my family, not yours – why are you the one losing your temper?” I told him, “You’d let your wife be a servant like a slave? They’re hiring you as a pilot and paying you like a cheap laborer! Forget that nonsense. Our foster mother will get us out soon. Stop listening to these ridiculous sponsors!”

On Saturday, May 24, 1975, our foster mother sponsored us out of the camp and brought us to San Antonio. On Sunday, she took us to church. After Mass, she introduced us to a parishioner who offered us work as handyman-assistants, and we both went to work on Monday, May 26, 1975.

Neither of us had ever done this kind of labor before; we only knew studying and flying – but we did whatever he told us to do, we both were a typical fast learner that made the boss pleased and said we were skillful and smart. I cursed silently, “Of course we’re smart – how else do you think we became pilots?”

Still, we tried to worked diligently so he would keep us employed. There wasn’t much work – only a few hours a day. At the end of the week, the two of us received a single first paycheck of $46.

Holding that check, I suddenly thought of the $500 monthly offer our friend’s family had received – crop-dusting and housecleaning included. For a brief moment, I felt uneasy… but then a quiet pride washed over me. I had protected his dignity and his family’s honor. And now we were earning our first American dollars with our own hands. We took the check home, had our foster mother’s son cash it for us, and tried to give her money for groceries.

Naturally, she refused. So, we used it to buy food for both families. (Back then, $20 filled a grocery cart.)

After some time in San Antonio, seeing no real future, we heard someone mentioning about welfare office could help. When we talked about that to our foster mother, she and her son were furious. They told us never to speak of welfare or food stamps while living under her roof. But eventually I went there secretly. The staff said they were willing to give us welfare and food stamps temporarily but thought of the foster family’s words, I said I only wanted a find a steady job. They referred me to an employment program, where I met farm owners looking for workers. They offered housing, transportation, and proper wages if we agreed to move to their farms. I set an appointment for both os us in the next day.

When I got home, I discussed it with him – he agreed. When we asked our foster mother, she reluctantly consented, saying we should try to save money and eventually move back into town. His family left with one farm owner; my brother and I went with another. The two farms were not far apart.

Every weekend, I drove over to visit him. He told me he ran the tractor every day; his wife helped with house chores; the life was tolerable. He laughed mentioning, “In the camp, someone wanted to hire me to fly a crop-duster, and you stopped it. Now I’m driving a tractor, and my wife is still helping with housework!” I had no answer – but strangely, I felt no regret.

Life was hard. We were all focused on survival, so visits became less frequent. Farm work didn’t suit us; factory work didn’t either; eventually we left the fields and returned to the city looking for different jobs. He later came back to San Antonio and found work. I left for school, then drifted across states seeking a livelihood. Eventually he moved to Tennessee, invited by another friend of us. We stayed in touch only occasionally.

Many years later, after hardships in California, my family moved to Houston – where I found him again. His life was stable; his children were thriving. Mine was less fortunate, full of relocations and struggles. After several moves between Houston and California, we finally settled permanently in Houston once both my wife and I found stable jobs.
It seems fate tethered the two of us together. After all the upheavals of more than half a century – from two clueless kids who almost fought each other on first meeting – to old men with families, bent backs, and silver hair, we somehow remain near one another in this second homeland.

4. Đặng Phước

He is one of my four closest lifelong friends. A true son of Quảng Ngãi, a proud alumnus of Trần Quốc Tuấn High School – the province’s famed institution that produced many of its brightest. I too was born in Quảng Ngãi but left for the South after only ten years to build a new life with my parents and siblings.

He joined Company 44 a few days after I joined 43. Although in the same battalion, the two companies trained separately, so even if we knew of each other, it was superficial. After completing the Quang Trung course, we both returned to “Ghost House Area” to tread the grass – always sneaking away whenever possible.

Later, we ended up in the same language school class, just different tents, and when sent to the U.S. for further training, each went into a different specialty. He qualified for helicopter training; I went into fixed-wing. We remained acquaintances – nothing more – though we both knew the other was a fellow “nẫu” from central Việt Nam.

After returning from the U.S., during a supply mission to central Việt Nam, I landed in Nha Trang and ran into him by chance. It had been ages. Two country boys from Quảng Ngãi, chattering nonstop. Afterwards, whenever I flew to Nha Trang, I sought him out. But battlefield demands scattered us again.

As the war intensified, I often flew supply runs and transported fallen infantry brothers back home. At Đà Nẵng airport, I found him again – he had transferred there. We met a few times before my own flying life changed: from C-123 to C-130, then to the AC-119K gunship.

When the central front grew fierce, the AC-119K teams were detached to Phù Cát and Đà Nẵng to provide close support. I volunteered repeatedly – staying far from “the sun” suited more. Whenever I went to Đà Nẵng, I looked for him at the bachelor officers’ quarters. He flew in day time while I flew by night; we met only if our days off aligned.

Though our salaries were the same, he always seemed to have more money and generously treated me. A poor boy being treated? Heavenly! Since he stationed at Đà Nẵng for a long time, he took me everywhere.

Once he took me to meet his girlfriend. She promised us her special Salt-Roasted Crab. We waited, starving. When she proudly presented it, we burned our tongues – not from heat but from the huge amount of rock salt she had cooked it with. We had to go into town to eat. That memory – nearly fifty years later – still makes us laugh.

Because our bond deepened, on later deployments I always volunteered for Đà Nẵng. He even trained me flying helicopter and let allowed me on his missions. He warned me, “If we get shot down, they’ll post a court-martial notice on our coffins instead of giving us promotions.”

He let me sit in the copilot seat, buzz treetops to scare me, made me lifting my feet multi times for his crew to have a great laugh. When possible, he kept teaching me to fly helicopters. I nearly mastered hovering but soon lost the chance.

On March 25, 1975, I flew with him on a mission over our homeland, Quảng Ngãi, to extract the province chief who was trapped by VC forces on a mountaintop. After that, I begged him to fly over my Uncle Út’s home in Sông Vệ to rescue them if possible, but by the time we arrived, the area had been overrun. Even he – reckless as he could be – couldn’t land.

I then asked him to circle over my girlfriend’s house in Sông Vệ. He flew a few loops, then returned to base. The entire province fell that day.

On March 27, 1975, I left Đà Nẵng in chaos and couldn’t find him. On the way back to Saigon, I heard on the radio that Đà Nẵng airport was lost. My heart sank – not knowing his fate.

In mid-April, I rejoiced to see him in Saigon. He stayed with me in the bachelor quarters while waiting to be reassigned to Region IV. On April 27, he received word that his “future wife” – the Salt-Crab Lady – had escaped from Đà Lạt and arrived in Saigon. He went out to meet her.

When I fled Saigon on April 29, he stayed behind with his love.

Years later, I suddenly received a letter – hinting at escape from re-education camp, failed many times sea attempts, imprisonment, another escape, disappearance. Until one day news arrived – he had made it to a refugee camp and asking me to help sponsor him and his young son. I did so. Later, his wife and their elder daughter also reunited with him in the camp. It was overwhelming joy.

When his family arrived in Oakland, I picked them up and let them stay in my rental three-bedroom apartment. Soon after, he received housing assistance and he continue paid me his small portion. Having arrived late, he worked tirelessly to rebuild his life. Those who lived under communism’s hardship knew how to seize opportunity when it came. In no time, he bought his own house, and my family moved once again to Texas left him and his family stayed in Oakland.

Now he is doing well – far better than I am. While I’m still hustling through life, he has retired, his children successful in education and career. He and his wife now enjoy gardening and being grandparents. They moved to San Diego with mild weather all year.

But even so, he still can’t escape me. Wherever he lives, I show up, sleep over, and bother him. He and his wife always welcome me warmly, making me feel guilty that when he first came – “one leg wet, one leg dry” – I wasn’t able to help more. I am proud of him. He deserves every blessing after enduring the bitterness of the past. Truly, as our elders say, “After hardship comes prosperity.”

Conclusion

Today, the five of us “five devils” are all old men. Our health varies, but we’re still managing. One in San Diego caring for grandkids; one in Seattle recovering from illness; one in San Jose driving an 18-wheeler; the Khmer boy happily traveling between Houston–San Antonio–Austin helping his children; and I – still full of restless energy, finally running a martial arts school after retired.

From time to time, I visit whoever I miss. Their affection for me – more or less – doesn’t matter. How much I annoy them also doesn’t matter. What matters is that I love them as brothers.

A friend once is a friend for life.

I pray we all remain strong and steady, living our remaining years in peace. And one thing is certain, they will never escape me. As long as I have strength, I will continue to “bother” them – always.

Kingwood, October 2019


« TRANG NHÀ »