HUYẾT SỬ

ngày 26.10.11


* Hồnguyễn
(Kỷ niệm thuở ban đầu)

Một ngàn năm trong bóng tối
Được đem chưng bày nơi Tàng-cổ-viện
Để rồi một ngàn một trăm năm sau
Đêm đêm ngồi nghe Mẹ kể chuyện liêu trai
‘những con chồn tinh sống lâu trăm tuổi
Hiện hình người giao hoan cùng chàng thư sinh khờ dại’

Năm nào người mặt trắng, mắt xanh
Tay cầm Thánh-kinh, tay ôm súng tiến vào Đà Nẵng
Làm sao quên được sông Lô
Với hơn hai ngàn xác quân thù
Bến Đoan-hùng bềnh bồng thây giặc
Rồi núi rừng xào xạc âm ba
Hàng vạn xác người
Kéo về thành phố mừng hoà bình
Nôn nao, hăng hái như chàng dũng sĩ
khi vác giáo xông vào đấu trường
Và hàng vạn xác người
Buồn bã đưa nhau về rừng núi
Khi thời Bảo-hoàng sụp đổ

Mặt trời cung đã tách rời Thái-dương-hệ
Nên hơn hai mươi lăm năm
Chưa ló một tia nắng vàng rọi xuống
Đêm đen.
Chung quanh chỉ bóng tối và đầy rẫy danh từ
Ôi! Ước mơ treo cao từ đỉnh núi
Tuổi trẻ lớn lên quen dần với nỗi cô đơn, tủi nhục
Nên tâm hồn đóng băng
Thương đau cũng trở thành quen thuộc
Quen thuộc như câu cách ngôn ở nhà trường
Hồi còn tiểu học

Sông Lô vẫn lạnh lùng trôi
mang theo cùng tủi buồn dân tộc
Vẫn lạnh lùng như thương đau, đổ vỡ từng phút
Ngự trị trên mảnh đất vốn đã nghèo đói
Bao năm qua con trâu đi trước, người cày theo sau

Bóng dáng nào rủ-rê tôi
Trở về với quá khứ vàng son
Vừa đắng cay, vừa hãnh diện
Bàn tay nào xô đẩy anh
Phải làm những gì lương tâm anh chối bỏ
Giọt nước mắt nào tiễn em về với nghĩa trang?

Ôi! Bóng dáng nào,
Bàn tay nào,
Giọt nước mắt nào,
Tuổi trẻ sống trong miền băng hoại của linh thể
Tức tưởi, nghẹn ngào
Hàng ngày bạn bè, anh em …
Chạy như bay vào hố thẳm.
Sống để chờ đợi, phó mặc
Hay sống cho thời thơ ấu vàng son, hoa bướm?
Không, đã qua, đã qua rồi
Chỉ còn lại mười ba năm sách đèn
Tạm đủ để hiểu, để biết, để tiếc rẻ tuổi thơ
và thương yêu những người còn sống
Mười ba năm nhắc nhở đến vị Tiền-nhân
Đã khai sinh cuộc Cách-mạng văn hóa
Đông-kinh Nghĩa-thục
Để nghe khuyên nhũ rằng:
“Quê hương, đất nước ta không là thành Paris
Chúng ta không là con cháu
Của những người mắt xanh, tóc vàng”
Quanh đâu đây
Anh ngồi trông bánh tét,
Chị lặng yên quay tơ
Chờ xem con gì ra đời
Đợi chờ với nỗi-niềm thầm kín, xót xa

Xin hãy ngước mắt nhìn về Israel
Nhìn bóng đêm rùng mình rủ nhau chạy trốn
Ánh nắng hồi sinh
Dãy Trường sơn mỉm cười, vươn mình ra biển
Thắp nén hương qùy bên mộ Tolstoi
Xin Leon sống lại cầm cờ đi trước
Mang cô đơn ra khỏi tâm hồn người đôn hậu
Đem tin yêu treo trước cửa nhà
Chắp tay hướng về
Một ngàn một trăm năm trong Tàng-cổ-viện
Hồn sông núi linh thiêng
Xin cho năm chục triệu người bước ra khỏi bóng đêm
Xin nhặt những mảnh bom, vỏ đạn
trên đồng lúa, nương khoai
về làm gạch xây tường cho lớp học
Xin quê hương miền Trung bớt đói nghèo
Sắn khoai cũng đủ ấm lòng mẹ hiền
Suốt đời tần tão nuôi con
Xin cho quê hương Việt Nam sớm thanh bình
Để Bắc Nam chung về một mối
Cùng nhau quỳ trước bàn thờ Tổ Tiên
Để tưởng nhớ, để ngậm ngùi
Để không quên giống người Ngoại lai
Với đại hận một-ngàn-một-trăm-năm

Saigon, Mùa Thu 1970

(Trích trong tập thơ: Cho Quê Hương – Tôi – Và Tình Yêu
Xuất bản 1998)


Blood History

English translation by Vuong Thanh

A thousand years in darkness,
displayed in the Ancient Archives.
Then a thousand and one hundred years afterward,
night after night, sitting and listening to Mother telling fairy tales:
‘Fox spirits living for hundreds of years
Taking the form of humans to romance naive scholars’.

Many years ago, the fair-skinned, blue-eyed people
with the Bible in hand, guns on their shoulders, advanced into Đà Nẵng.
How can we forget the Lô River and the Đoan Hùng harbor
with over two thousand enemy corpses.
The mountains and forests echoed with explosions and war cries.
Tens of thousands of gaunt people
came back to the city to celebrate peace.
They were restless and eager like valiant warriors
Wielding spears in the fight-to-the-death arena.
Tens of thousands of people
in grief went back back to the mountains
when the Nguyen Dynasty collapsed.

The solar system has separated from the Sun.
Thus, for over twenty-five years,
Not a ray of golden sunlight has shone down.
Dark night.
Surrounded only by darkness and filled with empty words.
Oh! The lofty dreams hanging from the mountain peak.
Youth grew accustomed to loneliness and shame.
The heart turned indifferent, the soul closed.
Painful sorrows became familiar.
Familiar like the proverbs taught in elementary school.

The Lo River still quietly flows
Carrying the nation’s shame and sorrow.
Still chilly as the pain, aching every minute
Ruling over a land already so impoverished.
For many years, with the buffalo ahead and farmer behind.

Which shadow tempts me
to return to the golden past.
So bitter yet proud.
Which hand pushes one
to do things one’s conscience rejects.
Which drop of tear to see one’s love off to the cemetery?

Oh! Which shadow,
Which hand,
Which teardrop,
Youth, living in the destructive realm of the spirit,
is bitter and choked up.
Everyday, seeing brothers and friends,
running into the abyss.
To live in anticipation yet with resignation to Fate.
Or to live for a return to the golden childhood,
with butterflies and flowers?

No, it’s over, it’s all in the past.
Only thirteen years of textbooks remain.
Just enough to understand, to know, to regret the lost childhood.
And to love the living.
Thirteen years being reminded of the Ancestor
Who birthed the Cultural Revolution,
“Dong Kinh Nghia Thuc”
to hear the advice:
“Our homeland, our country is not like Paris
We are not the descendants
Of blue-eyed, blond-haired people.”
Around here,
you sit watching the Tét cake,
she quietly spins the yarn,
to wait and see what child is born.
Waiting with secret longing and heartache.

Please raise your eyes and look toward Israel.
Witness the shadows in the night fleeing in terror.
The rebirth of sunlight
The Truong Son Range smiles and reaches out to the sea.
Lighting incense by Tolstoy’s grave.

Please let Leon come back to walk ahead, holding the flag.
To take loneliness out of the gentle soul.
To hang the banner of trust and love in front of the house.
Folded hands facing
a thousand and one hundred years in the Ancient Archives Museum.
O the sacred soul of rivers and mountains,
May tens of millions step out of the darkness.
May they take the bomb fragments, the bullet shells,
off the rice fields and potato farms,
to build bricks for the school walls.
May the land of Central Vietnam have less hunger and poverty.
Even cassava and sweet potatoes are enough
to warm the heart of a loving mother,
who, for a lifetime, tirelessly nurture her children.

May the homeland, Vietnam, soon be at peace
and the North and South united.
Kneeling together before our ancestors’ altar,
we remember with sorrow,
to never forget the foreign invaders,
With the bitter grievance of being invaded
for a thousand and one hundred years.


« TRANG NHÀ »