Tản Văn “Dòng Đời Trôi”

ngày 24.08.23


Một ngày như mọi ngày. Tôi vẫn ngồi đối diện nhà tôi ở căn bếp. Nàng dùng căn bếp làm văn phòng làm việc tại nhà kể từ thời Covid 19. Hương cà phê buổi sáng thoang thoảng trong căn phòng nhiều cửa sổ và một không gian ngổn ngang nhưng không bừa bộn của khu nhà bếp.

Tôi ngồi với computer, nhâm nhi cà phê nhìn ra khu vườn buổi sáng.

Khu vườn mùa nắng cháy trông buồn buồn như lòng người sáng nay. Cây cỏ vàng úa dù tôi vẫn phải tưới tay cách ngày. Tôi đã mướn một chủ thầu làm cỏ người Mễ đặt hệ thống tưới nước tốn gần ba ngàn đồng mấy năm qua. Nó lắp đặt xong sử dụng được hơn tháng thì hỏng. Gọi tới gọi lui nó tìm cách chạy làng; bực mình quá nhưng không làm gì nó được và nó cũng trốn biệt luôn; chưa nói là trả tiền nước mệt nghỉ. Rốt cuộc tiền mất tật mang, phải tưới bằng tay trong suốt mùa nắng.

Mới nửa buổi sáng mà cành lá rũ rượi trông tội nghiệp. Lũ chim cũng biến mất, bướm ong cũng ngủ vùi khi những đoá hoa cố gắng chống chọi với cái nóng đang lim dim ngủ, không mời gọi một ai. Không có cả tiếng chuông gió vẫn thường nghe. Gió dường như cũng trốn đâu mất tránh cái nóng kinh người.

Mùa Hạ Kingwood chưa bao giờ khắc nghiệt như thế. Mùa Hạ năm nào, tôi còn nhớ cũng nắng gay gắt lắm, bỗng có cơn mưa rào bất chợt về ngang, tôi và cỏ cây cũng bất chợt mừng đón. Tôi đã bật cười lạ lẫm, viết ngay một đoản văn “Mưa Tháng Bảy ở Kingwood” gửi đến bạn bè gần xa như chia sẻ niềm vui hiếm hoi đã về ngang Kingwood. Thế nhưng, năm nay, hơn tháng rồi không có lấy một giọt sương.`

Nghĩ ngợi lan man đưa tôi về bên ấy. Nhớ về người ấy. Thời ấy.

Người ấy vừa ra đi không một lời từ giã. Người mà nửa thế kỷ trước đã cho tôi những hoài mong, trăn trở. Thời mà tôi vừa rời ghế nhà trường để sống đời quân ngũ. Vào quân ngũ tôi không rõ ràng một khái niệm gì ngoài bổn phận của một người trai lớn lên trong chiến tranh. Sách vở đã không thể giữ tôi lâu trong các giảng đường khi mà những xôn xao chiến trường tràn về thành phố. Sách vở không giữ được trên tay, tâm tình không cô đọng được trong những bài giảng. Cả một thời đi học tôi chỉ vắt vai một hai mối tình học trò lơ tơ mơ để mà “có” với bạn bè. Nhưng thật tình, mấy cái vắt vai đó đã không đâu vào đâu. Tất cả nỗ lực đều dồn hết vào sách vở để cố không phụ tấm lòng hy sinh của cha mẹ anh em; để cố tránh xa tiếng gọi của chiến trường, để rồi cuối cùng cũng phải ra đi. Và tôi đã gặp nàng trong bước đầu quân ngũ.

Nàng cũng là một cô sinh viên, không đẹp lắm nhưng thơ hay chữ tốt, tính tình đôn hậu. Nàng đến với tôi trong thời gian tôi trốn nhà vào lính làm con bà phước ở quân trường Quang Trung.Nàng theo chị là bạn gái của bạn quân ngũ của tôi trong một buổi thăm nuôi cuối tuần. Sự thay đổi từ đời học trò qua đời lính có làm xáo trộn mọi điều toan tính. Tôi đang chới với để thích nghi cuộc sống mới thì nàng thả cho tôi chiếc phao để bám vào. Tôi có thư, có thơ để đọc sau những buổi quân hành, sau những giờ tập luyện lao khổ; tôi có nàng tình nguyện “thăm nuôi” trong suốt 3 tháng quân trường; có được nàng an ủi, vuốt ve cho sự lạc lõng quê người trong suốt thời gian hơn một năm du học ở Mỹ.

Những ngày xa quê hương đó, thư của nàng bao giờ cũng được đón đợi nồng nhiệt cho đến ngày về nước thật sự xông vào lửa đạn.

Dù vậy, trong sâu thẳm của tâm hồn tôi, mối quan hệ nầy rõ ràng không phải là tình yêu mà tôi hằng mong đợi. Tôi coi nàng như một người thân, như người bạn để cùng nhau chia sẻ vui buồn. Có đôi lần trong thư từ qua lại, tôi có cảm tưởng nàng nghĩ về tôi không như tôi nghĩ về nàng. Điều đó sinh ra giận hờn. Có một độ rất thưa thớt thư qua thư về, một phần vì cuộc chiến nhưng mấu chốt vẫn không tìm thấy mẫu số chung cho nhau.

Tôi đi vào cuộc chiến như một hiển nhiên không suy tính. Ngày lại ngày qua vẫn cứ sống như mơ. Đường mây lối gió khắp bốn phương trời, tôi như những áng mây trôi lờ lững không định hướng nào rạch ròi cho một tương lai. Mà tương lai nào đâu. Bạn bè hết đứa nầy tới đứa khác ra đi như những vần thơ buồn. Rất nhiều lần trong cuộc chiến tôi đã toát mồ hôi lạnh, chuẩn bị tư thế đi không ai tìm xác rơi. Nghĩ tới một ngày nào đó nhảy phóc lên bàn thờ ngồi xem gà khoả thân… bỗng phì cười, rồi thôi lại tiếp tục làm lính thành phố.

Lính thành phố nhưng có những bữa ăn thịnh soạn với xôi nắm, bánh mì trên trời. Cũng lịch duyệt khi ra đường; cũng cà phê thuốc lá, cũng ngồi Brodard với bạn bè những ngày đầu tháng để ngắm ông đi qua bà đi lại. Lương độc thân của một pilot cũng chỉ vừa đủ đóng tiền ăn hàng tháng cho một buổi ăn tối đàng hoàng gần chỗ ở trọ. Mỗi đầu tháng còn được chén mầy chén tao, cuối tháng đôi khi cũng mì gói, cũng ration C… Thế nên và dường như tôi chưa bao giờ thấy có tương lai nào để toan tính.

Xong học nàng rời thành phố về tận Miền Trung vì Saigon không có gì để giữ chân nàng. Tôi cũng mải miết đi bay không có cả cơ hội nói lời tiễn biệt. Rồi từ đó, thỉnh thoảng mới thư thăm hỏi “Anh khoẻ không, em khoẻ không”… chấm hết!

Bẵng đi khá lâu. Lâu lắm, tôi có dịp trở lại quê nhà sau những tháng ngày lưu vong. Tôi về Miền Trung thăm chú út, em của ba tôi, là người duy nhất còn sống của 9 anh em. Không biết đứa em nào con của chú đã thông báo cho nàng biết để nghe chúng nó thuật lại, “Chị L. chạy xuống định thăm anh, nhưng gần tới nhà lại vội vã quày xe trở về, lụp chụp sao không biết mà té tới rách cả áo, trầy cả chân đến chảy máu.” Tôi nghe vậy nên cùng một đứa em đến nhà thăm nàng nhưng nàng nhất định không tiếp… đành thôi. Biệt tin từ đấy.

Chiều qua cô em út gọi báo tin, “Anh Bốn ơi! Chị L. đi rồi!” Chú em trai lại gọi, “Anh biết gì không, em vừa nghe tin chị L. qua đời rồi!” Đứa em gái ở Biên Hoà cũng gọi qua, “Anh à, chị L. vừa mới mất!” Tôi thật bất ngờ nàng còn có những liên lạc thân tình với lũ em tôi. Dù có chút bàng hoàng khi nhận hung tin, nhưng tôi cố làm ra vẻ bình thản chấp nhận, “Thế cũng đã xong một kiếp người! Ai rồi cũng phải ra đi!”

Không phải tôi dửng dưng trước tin xấu nhưng thật sự tôi chấp nhận, như lời nhạc tôi viết cho nhạc phẩm Dòng Đời Trôi, “…cha mẹ, anh em, người thân, bè bạn… chỉ là mốc dừng chân nơi cõi tạm luân hồi.” Cũng có thể nàng đã là một bóng mờ trong tâm tưởng của tôi từ lâu; cũng có thể những ràng buộc chừng mực năm xưa đã phai nhạt trong tôi sau bao nhiêu thay đổi trong cuộc đời. Dù vậy, đón nhận tin buồn, lòng tôi cũng dấy lên chút lưu luyến, bâng khuâng.

Tôi rời computer bước ra sân tưới nước cho cây cỏ. Tai như nghe hoa cỏ reo vui. Mấy khóm hoa đang héo rũ dưới ánh nắng nóng bỏng rung rinh tắm gội dưới làn nước mát. Vừa tưới nước vừa khe khẽ hát bản nhạc Dòng Đời Trôi.

Ngồi trong bóng đêm
Nghe tiếng gió đuổi nhau qua thềm vắng
Cả không gian âm trầm vắng lặng
Chỉ có tiếng côn trùng rả rích gọi canh thâu

Tự hỏi mình, gió sẽ về đâu
Khi đã đến cùng trời cuối đất
Người sẽ về đâu
Sau bao phen được-thua-còn-mất
Đứng trước tử sinh, len lén thở dài?”

Có bao giờ tự hỏi ta là ai
Giữa thế giới con người muôn vạn
Cha mẹ, anh em, người thân, bè bạn
Chỉ là mốc dừng chân giữa cõi tạm luân hồi

Có khi nào mây trắng sẽ ngừng trôi
Và lũ dế đêm trường ngưng nhạc khúc
Dòng đời kia sẽ không còn trong đục
Cuộc sống con người thôi tất bật trầm luân

Nhìn xuyên bóng đêm
Đi loanh quanh trên đường giác ngộ
Không bao lâu sẽ về cát bụi
Thì có chi vướng bận ưu phiền

Nghe đêm xạc xào, hàng cây nghiêng nghiêng
Bóng đêm thì thầm, trời sương mênh mang
Mai đây trở về bờ giác đang chờ
Dòng đời trôi…

Phải! Ai rồi cũng phải ra đi! Ai rồi cũng sẽ ra đi, về với cát bụi, bởi nếu có bao giờ mây trắng ngừng trôi giữa lưng trời thì dòng đời mới sẽ không còn trong đục và cuộc sống con người mới hết tất bật, mới thôi bon chen.

“Thế gian ly biệt thường tình!” Ai cũng biết rằng kiếp người rất mỏng manh, ngắn ngủi… Nhưng biết vẫn biết, còn ngộ thì còn phải tuỳ duyên!

Tháng 8/2023


« TRANG NHÀ »