Phi Vụ Tinh Long Cuối Cùng

ngày 5.03.20


Do Đăng Khoa biên soạn và trình bày trên đài phát thanh Saigon Houston 900AM trong dịp kỷ niệm 30 Tháng Tư.


Những ngày cuối ở Saigon
và phi vụ cuối cùng của một Tinh long

Cứ mỗi lần ngồi vào máy computer muốn viết lại vài mẩu chuyện đời lính của mình là một lần cho trí nhớ chạy lang bang, chạy tung tăng trên những chiến trường khắp vòm trời Miền Nam Nước Việt. Những ngày tháng xa xưa đó như một cuộn phim hấp dẫn, rất dài, quay rất chậm rãi… khiến đầu óc lụ mụ với bao nỗi nhớ niềm thương. Đôi khi nước mắt trào dâng khi tưởng tượng những khuôn mặt bạn bè thân thương đã nằm xuống, đã ra đi với bao nỗi ngậm ngùi.

Đã 45 năm qua rồi nhưng sự xúc động vẫn còn nguyên vẹn khi hình dung từng khuôn mặt, từng giọng nói, tiếng cười của 9 Phi hành đoàn (PHD), gồm 6 Phi hành đoàn chính thức và 3 Phi hành đoàn túc trực với hơn 80 nhân sự có tên trong tờ Phi Vụ Lệnh cuối cùng của đêm 28 rạng 29/4/1975. Nhưng đặc biệt nhất là Phi hành đoàn Tinh Long 07 của Trung úy Trang Văn Thành. Phi hành đoàn rất anh dũng, đã đánh một trận oanh liệt cuối cùng, rửa hận thay anh em và đã hy sinh cho quê hương dấu yêu trong giờ thứ 25.

******

Không ai không biết là tình thế càng lúc càng xấu đi; địch quân đã tiến về sát vòng đai Saigon. Thời gian vài tuần trở lại đã có một số anh em xầm xì chuyện di tản chiến thuật… nào là tử thủ Vùng IV, nào là Côn Sơn, nào là Phú Quốc, nào là Thái Lan, Bangkok… làm tôi bật cười! Vâng, chỉ xầm xì như chuyện bình thường rồi việc ai người đó lo, hồn ai người ấy giữ trong khi đó các cấp chỉ huy hoàn toàn không nói gì đến tình thế hiện tại. Họ vẫn tỉnh bơ điều động công việc bình thường như mọi ngày. Mọi người vẫn đi bay, vẫn cấm trại, vẫn điếu đóm với an ninh phi trường để chạy ra chạy vào giữa cảnh Saigon xôn xao, lo lắng chiến tranh tràn về thành phố.

Trưa 27 tháng 4 năm 1975, tôi còn ngồi ăn ở quán Huế (bán toàn đồ ăn xứ Huế) nằm trên đường Phan Thanh Giản. Quán này của gia đình Thu Dung, một cô bạn cùng hát hò trong Ca Đoàn Hương Xưa mà tôi có cảm tình đặc biệt. Nhân lúc Thu Dung tới ngồi chơi với tôi một lúc, tôi thật sự chỉ nói đùa với Thu Dung nhưng lại với giọng điệu nghiêm chỉnh, “Tình hình đen tối quá, em có muốn đi tỵ nạn với anh không?” “Em là chị cả trong gia đình làm sao em có thể ra đi một mình được anh?” Và đó là câu nói đùa cuối cùng của tôi còn tồn đọng trong tâm tư từ ấy đến nay. Nếu tôi thật sự có ý định ra đi, chắc chắn Thu Dung không có ưu tiên đó mà là người vợ sắp cưới đang ở không xa dưới phố. Dù vậy, tôi cũng ghé đón chú em thứ Tám đang trọ học ngoài phố vào cư xá Sĩ Quan độc thân ở cổng Phi Long, vì nghĩ rằng có hai anh em ở Saigon nên sống chết cần có nhau, vì chúng tôi đã mất liên lạc với đại gia đình từ trước khi đi biệt phái Đà Nẵng và rồi theo Biệt Đội xính vính rời khỏi vùng hỏa tuyến địa đầu trưa ngày 27 tháng 3, năm 1975 để về lại Saigon.

Trưa 28/4, được tin từ một người thân quen ngoài phố, chú em trai thứ Bảy của tôi ở Bình Tuy chạy về tới Saigon bằng đường biển. Tôi vô cùng vui mừng, cấp tốc chạy ra đưa chú vào trại nhờ sự quen biết với an ninh và phòng thủ phi trường. (Tôi quen biết với họ qua Học Viện Võ Thuật Thần Phong, và qua những lần tranh giải bóng chuyền hàng năm giữa các đội tuyển Không Quân, mà đội tuyển Không Đoàn 53 Chiến Thuật bao giờ cũng giành chiến thắng sau cùng vào những năm cuối cùng của KQVNCH.) Trong khi đó, Đặng Phước bạn chí thân bay trực thăng ở Đà Nẵng di tản về Saigon ở tạm với tôi vài tuần lễ để đợi lệnh đi Cần Thơ, lại hộc tốc chạy ra phố chiều hôm trước để tìm kiếm vợ khi nghe tin nàng ở Đà Lạt chạy về (cái quyết định này được trả giá cho nhiều năm tù đày, vài lần vượt trại, chục lần vượt biển cho tới hơn 10 năm sau mới chạy thoát được thiên đường mù Cộng sản, hội ngộ với tôi ở bến bờ tự do!) Sau khi ăn trưa với hai chú em, mua ít đồ đạt cần dùng ở khu gia binh, đưa hai chú về phòng dặn dò, “Chỉ nên ở yên trong phòng dù bất cứ biến cố gì.” Tôi tất tả vào phi đoàn điểm danh và ứng trực để chờ phi vụ hành quân.

Đêm 28 tháng 4, năm 1975. Tôi vẫn bình thản nhận phi vụ hành quân như mọi lần. Tôi được cắt bay phi vụ Tinh Long 2 từ 8g tối đến 10g đêm. Tôi nhớ như in cảm giác hồi hộp tột độ đêm hôm đó. Mỗi lần nhớ đến lại rùng mình. Cất cánh bay về hướng Lộc Ninh nhưng vừa qua Thủ Dầu Một không bao xa, chúng tôi đã nằm trên vùng trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là chiến trường không còn xa thành phố bao nhiêu. Tôi nói “bình thản” vì không có chọn lựa nào khác và không tin Saigon có thể thất thủ nhanh chóng hơn Nam Vang được. Với đầu óc vô tư của tôi lúc đó, tôi vững tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội Miền Nam sau hơn 7 năm dài làm lính. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng của quân đội Miền Nam, ngoài sức tưởng tượng của thế giới tự do cũng như cộng sản qua hai trận đánh long trời lỡ đất trong dịp Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, cho tôi niềm kiêu hãnh và tin tưởng.

Chúng tôi bay ở cao độ 10 ngàn bộ trên đường tới vùng trách nhiệm. Đèn đóm tắt hết, tối thui. Vừa tới “đầu ngõ”, địch quân đã dàn chào chúng tôi bằng đủ loại phòng không, thắp sáng rực trời như màn pháo bông ở lúc cuối cùng của cuộc lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ mỗi năm. Hai mươi con mắt mở banh để canh chừng “đóm lửa xanh SA7.” Dưới mặt đất từng đoàn xe vận tải đủ loại của địch quân, nối dài vô tận, mở đèn sáng choang một cách tự tin, nối đuôi nhau chạy về hướng Saigon. Có vài lần anh Trưởng Phi Cơ hỏi ý kiến anh em có chuẩn bị tinh thần để xung trận hay không. Dường như không có một ai trong 9 người còn lại trên tàu có chút ngần ngại nào khi trả lời YES! Ai cũng đang căng thẳng, hồi hộp tột bực; cái chết dù có lởn vởn trong đầu mọi người nhưng không còn có sự chọn lựa nào khác tốt hơn là khai hỏa.

Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhào xuống nhập trận là phòng không cứ như đan lưới, sáng rực trời lại phải vã mồ hôi bay lên cao khỏi tầm phòng không. Phải rất dè dặt sử dụng trái sáng MK24 chống SA7 nhưng cũng đã bắn ra hơn chục lần! Ôi! Không có nỗi khó chịu, hồi hộp nào bằng khi lâm trận mình chưa bắn được viên nào còn địch quân cứ bắn xối xả như mưa! Kinh nghiệm bao nhiêu lần đánh trận, chỉ khi nào mình khai hỏa thì lúc đó mới hết hồi hộp. Nhưng cả 2 tiếng đồng hồ trên vùng, 4 khẩu đại bác minigun 6 nòng và 2 con gà cồ đại pháo 20 ly 6 nòng hôm nay hoàn toàn im tiếng. Chúng tôi không có lấy một cơ hội để khai hỏa vì không thể bay lọt qua được màn lưới phòng không. Ai cũng hiểu đạn minigun không ăn nhằm gì ở cao độ quá 4 ngàn bộ và đại pháo cũng chẳng ăn nhập gì nếu trên 6 ngàn bộ. Tự nhiên tôi có cái mơ ước lạ lùng, “Phải chi mình có đầy đủ đạn dược thì cũng bắn xả láng hù dọa địch quân và để cho mọi người bớt hồi hộp.” Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng phải rời vùng trong nỗi uất hận sau khi bàn giao vùng trách nhiệm cho Tinh Long 3.

Sau khi hoàn tất nhiệm vụ tôi hối hả chạy về cư xá. Chỉ hơn vài tiếng sau, đạn pháo kích của địch quân bắt đầu ầm vang khắp căn cứ. Vừa tờ mờ sáng, tôi dè dặt ra khỏi phòng để quan sát chung quanh… vì trong trận pháo kích lúc hừng sáng dường như chúng tôi nghe tiếng rú chói tai của một trái đạn pháo rớt xuống sát bên ngoài tường… đợi đến thót tim nhưng mãi không nghe tiếng nổ!!!

Tôi “rụng rời” khi thấy một phần nhỏ chui đạn 122 ly còn nhô trên mặt đất khi ra ngoài, lúc hừng sáng, để quan sát! Như thế có nghĩa là số phận chúng tôi chưa đoạn tuyệt. Nhìn chung quanh, tất cả đều vắng lặng; phía bên kia đường, đối diện cư xá là trại huấn luyện binh sĩ KQ; thường ngày ra vào nhộn nhịp giờ đã vắng lặng khác thường. Nhìn qua trại huấn luyện, thấy súng ống, đạn dược vất bừa bãi như một bãi chiến trường, tôi qua nhặt một ít đem về phòng với ý nghĩ thừa sức cho ba anh em chiến đấu tới cùng. Xong tôi lấy xe chạy lên khu gia binh, đến ngay tiệm tạp hóa của Tr/S Ngọn (một nhân viên phi hành vừa bay tối qua với tôi) mua thêm nhiều gạo và nước mắm. Mặc dù dọc đường thấy người người ngược xuôi xuôi ngược như tìm kiếm một cái gì; thỉnh thoảng tiếng pháo kích vẫn ầm vang đây đó nhưng tôi vẫn không hề nghĩ tới là phải tìm phương tiện ra đi. Về tới nơi thấy hai chú em lo lắng hỏi tôi tính sao? Tôi thản nhiên nói rằng, “Anh em mình có đủ thực phẩm và súng đạn để tử chiến một thời gian dài.” Hai chú nhỏ lần đầu tiên trong đời được rờ tới súng đạn nên có vẻ an tâm.

Bỗng nhiên, nhiều tiếng hô hoán bên ngoài, tôi mở cửa bước ra sân cỏ trước cư xá, cùng với anh em ngó về hướng phi trường, một chiếc Tinh Long đang bốc cháy bên cánh trái ở cao độ thấp! Chiếc phi cơ lao nhanh xuống làm lòng tôi đau đớn, bàng hoàng, vỡ vụn. Lòng tự hỏi lòng, không biết ai bay giờ này, phi vụ này. Phi đoàn có hai phi vụ túc trực hành quân, nhưng giờ này đã gần 7g sáng, đúng ra Tinh Long không còn trách nhiệm, không còn bị điều động xông trận nữa. (Vì thân thể kềnh càng, bay với tốc độ chậm nên Tinh Long chỉ lâm chiến hữu hiệu và an toàn vào ban đêm, từ 6g chiều đến 6g sáng rạng ngày hôm sau.) Tôi thầm nghĩ, có lẽ lũ giặc chạy nghênh ngang đầy đường chật sá như chỗ không người trên các nẻo đường tiến về hướng Saigon tối qua chắc đã gần tới ven đô…

Lòng tôi nôn nóng kỳ lạ, vô cùng bất an. Tôi bảo hai chú nhỏ ăn cơm trước, ở kỹ trong phòng, tôi lấy xe chạy vọt vào phi đoàn để xem sự thể ra sao. Chạy ngang qua khu cư xá của nữ quân nhân KQ thấy rộn rịp xe cứu thương, cứu hỏa. Tôi chạy một mạch vào phi đoàn… Ôi cảnh tượng hoang tàn, vài quân nhân đang ngược xuôi, dớn dác không ai có cơ hội chào hỏi ai như thường lệ. Dường như có một ai đó cho tôi biết ngắn gọn, “Trang Văn Thành và Tào Thuận và Phi Hành Đoàn Tinh Long 7 vừa bị bắn rơi ở vòng đai phi trường. Thấy có một người nhảy dù ở d0uoi6 phi cơ nhưng thấy dù không kịp bọc gió.” Tôi nấc trong cổ họng… Trang Văn Thành đã bay Tinh Long 1 đêm qua rồi mà! Nhìn cảnh hoang tàn và người người dớn dác chạy biến đi, tôi không kịp hỏi có những ai nữa trên đó… mà chạy vụt về cư xá – giữa lúc pháo kích vẫn nổ đì đùng đây đó – bốc hai chú em đèo nhau trên chiếc Lambrettite chạy ra khu đậu phi cơ của Phi đoàn Tinh Long tìm kiếm phi cơ hữu dụng để rời khỏi phi trường, dù trong đầu không hề nghĩ tới sẽ bay đi đâu.

May mắn gặp một chú Phi Đạo Tinh Long hướng dẫn tôi cùng đi tìm máy bay với câu nói, “Tìm được máy bay ông thầy cho em đi với nghe.” “Dĩ nhiên rồi!” Những nơi chú Phi Đạo hướng dẫn tới đều đã không còn máy bay. Hai xe bốn người chạy tiếp tục tìm hết bãi đậu này sang bãi đậu khác dưới những tiếng hú của đạn pháo kích của địch rót vào phi trường và kẻ chạy đông người chạy tây trong vô vọng…

Cuối cùng tìm được chiếc Tinh Long ở ngay sát Trạm Hàng Không Quân Sự còn khả dụng, mũi tàu đang hướng ra ngoài. Chú em Phi Đạo leo lên cánh cho biết 2 bình xăng đầy và cho biết chỉ một số đồng hồ không quan trọng hư hỏng mà thôi. Sau khi xem tình trạng chung bên ngoài, tất cả đều tốt. Tôi vào phòng lái quay máy… mừng quá, máy nổ ngon lành, một số đồng hồ không quan trọng lắm bị malfunction (kim nằm ở vệt đỏ). Tôi quyết định ra đi. Thò đầu ra cửa sổ phòng lái gọi chú Phi Đạo và hai chú em nhưng không thấy đâu. Tôi hoảng hốt tắt máy nhảy xuống đất thấy chú Phi Đạo ngồi trên chiếc xe hơi màu trắng, mui trần đang nổ máy! Chú nói với tôi rằng “thôi anh em ông thầy đi trước, em lấy xe chạy về nhà rước gia đình rồi tìm cách đi sau, xong chạy biến ra phía cổng!” Tôi nghĩ chú ấy vừa lượm được chiếc xe này của ai đó đã bỏ lại nên muốn dùng làm phương tiện về đưa nhiều người thân cùng đi. Nhưng tình hình này nếu chú ấy ra khỏi cổng thì kể như không còn cơ hội ra đi được nữa; có lẽ tôi đang ngẩn ngơ, hốt hoảng nên cũng chẳng nói được lời nào! Hơn nữa, tôi lại đang bâng khuâng tìm kiếm hai chú em. Vừa lúc đó thấy vài người bạn chung phi đoàn xuất hiện bất ngờ, nhảy lên tàu quay máy, di chuyển ra khỏi bến đậu! Tôi kinh hoàng đứng ngay trước mũi tàu cố khoa tay cản tàu lại nhưng con tàu vẫn phom phom chạy tới làm tôi phải nhanh chân nhảy ra chỗ an toàn, con tàu vẫn tiếp tục đi về phía phi đạo. Tôi vô cùng tức giận và thất vọng nhưng kịp suy nghĩ lại “ở lằn ranh sinh tử, con người ta thường hành động theo quán tính là chuyện tất nhiên.” Nghĩ vậy nên sự tức giận cũng lắng xuống bớt nhiều phần.

Đang đứng lớ ngớ với nỗi lòng tức bực hai chú nhỏ thì thấy hai chú em đang chạy về phía tôi! Tôi hét lên, “Tại sao bỏ đi đâu vậy?” Chú lớn bình tĩnh nói, “Tụi em xin lỗi anh Tư, hai đứa em không muốn đi, tính chạy về Bình Tuy tìm Ba Mẹ và anh chị em nhưng ra cổng không được, đầy nghẹt người là người, la ó phản đối om sòm nhưng Quân Cảnh bắn chỉ thiên rất gắt, rồi bắn cả xuống đất làm mọi người hoảng sợ lui vào.”

Nghe nó nói tôi chợt nhớ tới Ba Mẹ và các em… muốn khóc! Chưa biết hành xử ra sao thì nghe thấy tiếng Thiếu tá Phan Vũ Điện chạy xe pick up của KQ ngang qua vẫy gọi “Thuận, chạy theo anh nè, anh đang cần copilot.” Ba anh em vọt chạy theo. Lúc này pháo kích đã rất thưa. Chạy tới phía bắc của phi đạo gần khu Hàng Không Việt Nam, 3 anh em vọt ngay lên tàu cùng lúc với một số đông người ùa tới chen lấn nhau nhảy lên. Tôi và anh Điện làm việc theo quán tính như một chiếc máy… Tàu không hoàn hảo nhưng anh Điện trấn an mọi người “có tay trong” cho biết tàu còn khả dụng. Chúng tôi đưa tàu rời khỏi bến đậu hướng thẳng ra phi đạo cất cánh. Vừa chạy vừa ra lệnh cho áp tải đóng cửa sau. Áp tải cho biết rất nhiều người bu theo nhưng phải đành lòng…

Đường băng lỗ chỗ vì đạn pháo kích của địch quân, vừa chạy vừa tránh; tống hết ga cố tăng tốc độ thật nhanh để kéo tàu lên trước khi hết đường băng. Tàu rời khỏi mặt đất rung liên hồi vì chưa đủ tốc độ cần thiết. Anh Điện tăng cao độ thật chậm và tôi ngồi theo dõi phi kế mà lòng thầm cầu nguyện trong nỗi lo sợ tột cùng.

Tôi nghĩ trong đầu “có thể chiếc tàu bị triệt nâng và rơi bất cứ lúc nào!”; tai nghe trên tần số mọi người nói với nhau, “…phải quẹo trái chỗ Trường Đua Phú Thọ về hướng biển để tránh phòng không của địch quân.” Chưa quân bình được tốc độ mà còn phải quẹo gấp… chết là cái chắc! Anh Điện với bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc già dặn nên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Anh từ từ đưa con tàu lên cao dần về phía Côn Sơn. Tôi thở phào và đổi tay lái cho anh Điện nghỉ xả hơi chút đỉnh trong khi con tàu vẫn chậm chạp tăng cao độ! Đến lúc này, bình tĩnh mới thấy một buồng lái đầy người, ít nhất 3-4 ông chức sắc cùng chạy với mình trong đó có ông Hoàng Nuôi, Trung tá Phi Đoàn Trưởng Tinh Long 821 của tôi! Mỗi ông mỗi ý. Ông thì muốn đi Côn Sơn, ông muốn xuống Dương Đông Phú Quốc, ông muốn đi Bangkok, ông nói Utapao, có ông lại muốn đáp xuống nước (ditching) sát Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đang chờ ngoài khơi (?)… Cãi nhau chí chóe làm anh Điện điên đầu quát lên, “Các ông làm ơn im giùm, tôi là TPC của chiếc tàu này và tôi là người quyết định!” Tuy vậy, vẫn không ngớt tiếng bàn tán xôn xao dù không còn lộn xộn như trước! Cuối cùng anh Điện và tôi quyết định đi Utapao, Thái Lan. Tôi dò tần số để nghe ngóng tin tức của phe mình và tin tức phi trường…

Đáp xuống Utapao không mấy khó khăn sau hơn hai tiếng bay. Tàu vừa vào chỗ đậu được quân nhân Mỹ hướng dẫn. Trước khi xuống tàu, chúng tôi buộc phải để lại tất cả vũ khí đạn dược trên tàu. Có khám xét cẩn thận. Chúng tôi được hướng dẫn vào trạm hang không và một đội quân nhân Mỹ túa tới chiếc tàu, bắc thang sơn bỏ lá cờ VNCH! Chúng tôi hoang mang và đau buồn vô cùng nhưng cũng vừa lúc gặp lại rất đông bạn bè đã tới trước đang ồn ào tranh cãi về gia đình, vợ con đã được đem ra Côn Sơn sáng sớm hôm nay. Bây giờ tôi mới biết là bên C130 đã cho phép một số gia đình đi trước!

Ở Utapao vài hôm, khi những gia đình ở Côn Sơn tới nơi, gồm có các ông thần đã lấy máy bay của tôi ngày hôm trước; tôi vẫn còn quạu nhưng cũng phải cười trừ vì giờ đây ai cũng chung số phận. Chúng tôi làm thủ tục kẻ trước người sau chuyển đi trại tạm cư Orote Point, Guam. Ở đây được khoảng tuần lễ, anh em tôi được chuyển lên căn cứ Anderson làm thủ tục đi trại tỵ nạn Eglin AFB ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ.

Ở trại tỵ nạn vài tuần thì được “bà mẹ nuôi người Mỹ quen biết năm xưa” làm giấy tờ bão lãnh xuất trại đúng vào ngày Thứ Bảy, 26 tháng 5 năm 1975. Chủ Nhật hôm sau theo bà đi nhà thờ và Thứ Hai bắt đầu đi làm thợ vịn trong nước mắt với một con chiên nhà thờ có công ty sửa chữa nhà cửa mà bà quen biết, gửi gắm. Thế là cuộc đời bay bổng của tôi đã chấm dứt ở xứ không lạ nhưng là quê của người, không người thân thuộc… Thật là oan nghiệt và đầy cay đắng. Không đau buồn, không cay đắng sao được khi chỉ có ba anh em trai lưu lạc đất lạ quê người mà không được một chút tin tức gì về sự sống còn của ba mẹ và anh chị em còn lại!

Hôm nay, ngồi viết những dòng hồi tưởng này để cùng với các chiến hữu tưởng niệm đến những người đã hy sinh cả cuộc sống để cố bảo vệ một phần đất tự do và nhân bản có tên Việt Nam Cộng Hoà; để cùng hãnh diện một quân đội anh hùng bị bức tử oan uổng; đó là Quân Lực VNCH.

Mùa Tháng 4/2020


« TRANG NHÀ »