ĐỌC TẬP TRUYỆN “MƯA NẮNG BÊN ĐỜI”

ngày 5.12.18


Tôi nhớ chừng như đã gặp Yên Sơn cách nay khoảng 18 năm, trong một lần ông cùng nhiều vị khách khác từ khắp các tiểu bang của Hoa Kỳ và cả Canada về Boston dự buổi giới thiệu thi tập Đứng Dưới Trời Đổ Nát của nhà thơ Phan Xuân Sinh vào năm 2000. Hồi ấy, tôi nghe nhắc đến ông qua tiếng một người làm thơ, với tập thơ in chung của nhiều tác giả có tên “Những Giọt Sương Rớt Muộn”; và có lần tôi có nhắc qua một chút về mấy vần thơ của ông trong thi tập này:

“Người góp mặt sau cùng trong thi phẩm này và cũng là người góp công làm cho thi phẩm này có mặt, nhà thơ Yên Sơn, quê Quảng Ngãi. Với núi Ấn sông Trà là nơi tác giả chào đời nên non nước xứ Quảng đã để lại trong hồn ông nhiều cảm xúc trong những lần hò hẹn:

“Em vẫn chờ anh bên bờ sông Vệ
Tháng năm buồn cứ mải miết đi qua
Dòng sông xanh muôn đời trôi về bể
Anh có khi nào nhớ người tình xa …”

(Bao giờ về thăm sông núi đợi chờ, NGSRM, trang 377)

Nhưng đâu chỉ có hẹn hò, Yên Sơn còn cho người đọc nhiều âm điệu dìu dặt khác nữa:

“Anh trở lại vườn xưa vào tháng tám
Để nghe mưa rả rích khóc suốt ngày
Từ độ em theo chồng anh mới trở lại đây
Nghe kỷ niệm vờn chân anh từng bước…”

(Trở lại vườn xưa, trang 397)

Thế rồi thôi, vương vấn, bịn rịn thêm để làm gì khi đời nhiều bất trắc vô thường:

“Anh muốn nói với em những lời thắm thiết
Nhưng để làm gì cho cay đắng lòng thêm
Hãy ngồi xuống đây chia sẻ cùng đêm
Trăng huyễn hoặc với cành penseé ép…”

(Tình tự dưới trăng, NGSRM, trang 399)
(Trích trong Người Đọc & Người Viết, Quyển I, của tác giả, in tháng 10 năm 2017)

Thành ra, khi mở ngay trang đầu tuyển tập truyện ngắn “Mưa Nắng Bên Đời” của Yên Sơn, tôi vô cùng ngạc nhiên, ngạc nhiên từ những câu chuyện cho đến cách viết trên 313 trang sách của ông.

Mưa Nắng Bên Đời gồm có 21 truyện ngắn, trong đó có những cái tựa rất quen mà cũng rất trữ tình như tác giả muốn mời gọi bạn đọc lật qua từng trang sách mỏng. Chẳng hạn như truyện đầu tiên “Giấc Mơ Phi Công”, bạn sẽ nghe tác giả kể về một thời tuổi trẻ lớn lên trong chiến tranh và ôm ấp cho mình một giấc mơ giữa thời binh lửa! Tác giả kể:

“Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Sân trường, sách vở trở thành món nợ nhàm chán, nặng nề. Đã vậy, mỗi lần ra phố nếu không Cảnh sát cũng bị Quân cảnh xét giấy tờ quân dịch lia chia… nhưng không có gì nung nấu bằng ước muốn trở thành phi công.” (MNBĐ, trang 20)

Thế rồi, dù gặp biết bao trở ngại, từ gia đình với tình yêu thương của song thân của ông không muốn con mình đi vào “miền gió cát”; cộng thêm điều kiện khá khắt khe của binh chủng Không Quân, của quân trường, nhưng rồi mọi thứ cũng vượt qua và rồi ước mơ của ông rồi cũng thành sự thực khi ông hoàn tất các khóa huấn luyện phi công ở các căn cứ không quân Randolph AFB (Texas), Keesler AFB (Mississippi), Lockbourne AFB (Ohio), England AFB (còn có tên là Maxwell AFB) (Louisiana) của Hoa Kỳ. Sau khi ra trường và về nước cho đến tháng 4-1975, tác giả kể:

“Từ một gã học trò mặt trắng tay trơn đến một phi công lỡ vận, lỡ thời chỉ có bảy năm dài qua bao nhiêu chặng đường. Mỗi chặng đường chứa đựng biết bao nhiêu hồi ức, bao nhiêu kỷ niệm, có buồn có vui, lắm điều nhiều nỗi kể sao cho hết.” (MNBĐ, trang 27)

Rồi bạn sẽ thấy một “Diễm Xưa”, tiếp theo đó, là dấu tích của một lần gặp giữa hai con chim trời chưa mỏi cánh với Trần Vũ Thị N.A. và nhân vật xưng tôi, trọng một cọ quẹt xe giữa Sài Gòn để rồi trở thành một nỗi nhớ ở tuổi hơi trộng-trộng sau này. Nhưng có lẽ đến “Chuyện Tình Mùa Chinh Chiến”, dù tác giả không nói rõ năm nào, nhưng qua 10 trang sách, người đọc nghe ra được mùi chiến tranh đến hồi vô cùng khốc liệt! Khốc liệt bởi cái chết của những người lính đã đành mà còn khốc liệt bởi cả những giọt nước mắt của người thân của họ khóc tiếc thương con, em, chồng, cha của họ nữa! Tác giả Yên Sơn vừa là một phi công, vừa là một nhân chứng của những nỗi kinh hoàng ấy, nên chỉ vài lời ghi lại mà ông đã vẽ được cả những ngày binh lửa ngút trời! Mời các bạn nghe tác giả kể:

“Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, “Bình Long anh dũng, An Lộc kiêu hùng” đã kéo hút chúng tôi, binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa vào chiến trận mịt mù khói lửa. Dĩ nhiên các bạn bên tác chiến (trực thăng, khu trục, A37, F5) đối diện với tử sinh đã đành; lũ chúng tôi bên vận tải cũng góp phần không kém. Nào là thả dù tiếp tế, soi sáng chiến trận, không vận chuyển quân, không vận thực phẩm, thuốc men, đạn dược cho các chiến trường. Hai phi hành đoàn C123K hy sinh liên tiếp trong hai tuần lễ liền làm bàng hoàng những anh chàng có chữ thọ trên trán.

Những phi vụ kể trên dĩ nhiên đáng rét nhưng không bằng những phi vụ đưa anh hùng tử sĩ về quê. “Anh hùng” khi ra đi, khí thế phừng phừng với bầu nhiệt huyết, quyết một lòng giữ yên bờ cõi với súng đạn cài tận răng…, nhưng khi “tử sĩ” trở về, các anh chỉ nằm im lìm trong lớp áo quan, dưới lá quốc kỳ phủ kín, mặc cho người thân đau đớn tận cùng. Những tiếng khóc nỉ non, ai oán làm mềm lòng những người nghe.”
(MNBĐ, trang 44)

Chỉ tưởng tượng thôi, có lẽ bạn cũng thấu cảm được phần nào cái không khí chiến tranh mấy mươi năm ấy khắp các vùng lửa đạn trên đất nước mình! Và cũng vì chiến tranh và lửa khói cứ ngùn ngụt hoài nên dù có những đêm cùng thức với nhau canh cho mẹ già của nàng trong một lần nằm bịnh viện nhưng rồi ra:

Lần lựa mãi, toan tính mãi, hẹn hẹn thề thề… để rồi trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975 tôi vượt thoát, không có nàng, bằng chiếc Hercules C130 cuối cùng của căn cứ Tân Sơn Nhứt, mang theo hơn trăm nhân mạng mà không ai biết đi đâu, về đâu!”
(MNBĐ, trang 53).

Đó, như thế đó, cái buổi tàn cuộc chiến ngày xa xưa ấy, cách nay 43 năm! Tôi còn tệ hơn tác giả là chẳng biết “đi đâu và về đâu” vào những giờ khắc kinh hoàng ấy!

Thế rồi, dòng đời lại bắt đầu sau những ngày không biết “đi đâu và về đâu” đó của tác giả, ông đã ghi lại khá chi tiết về một khoảng đời long đong ấy rất cảm động qua các trang sách ở những truyện như: “Những Khởi Đầu Của Một Gã Tha Hương”, “Nỗi Buồn Chiêm Dân”, “Đường Về Ôi Quá Dài”, “Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh”, “Một Thoáng Hương Xưa”, “Khúc Khuỷu Dòng Đời”… Ở đó là cả một trời bỡ ngỡ, lạ lùng cùng với biết bao nỗi ngậm ngùi dâu bể!

Trong truyện “Những Khởi Đầu Của Một Gã Tha Hương”, với nhân vật xưng “hắn”, tác giả kể:

“Bà già nuôi là vợ của một cố Trung tá Không quân Mỹ thời đệ nhị thế chiến. Bà chia sẻ tuổi già với đứa con trai trung niên, ly dị vợ con, trong một căn nhà gạch cũ. Lợi tức của hai mẹ con là tiền cho thuê mấy mẫu nông trại cộng với tiền hưu bỗng ít ỏi! Ở bà, hắn thấy bà giàu nhất ở tấm lòng quý hiếm. Hắn đã gặp và thân quen với bà từ những ngày vỗ cánh tập bay trên đất nước này vào mùa Thu năm 1970, giữa những háo hức của tuổi trẻ và bầu nhiệt huyết tràn đầy mà tương lai và mộng ước ngập tầm tay, với niềm tự hào là một trong những đứa con được tuyển chọn của đất nước Việt Nam. Tình cảnh bây giờ hoàn toàn trái ngược! Gặp lại bà trong thân phận một gã tỵ nạn, một thằng chiến bại với những ước mơ cùn lụt, lụi tàn!

Hắn đã cúi đầu rơi nước mắt với những dòng suy tư hụt hẫng đó.” (MNBĐ, trang 82)

Và cũng từ những ngày mới bắt đầu buồn thảm ầy, nhân vật gọi là “hắn” đã có việc làm với số lương 2$/một giờ; mời bạn nghe tác giả kể:

“7 giờ sáng hôm sau là một ngày mới, một cuộc đời mới của hắn. Hắn ngoan ngoãn làm tất cả những gì thằng Mike biểu làm; hắn làm ngon lành, mau lẹ dù có lúc thật sự rơi nước mắt- Chỉ một tháng thôi mà đã nghìn trùng xa cách, mà đã voi chó đổi đời!- Từ quét rác, lau cầu tiêu, cắt ráp kính cửa sổ đến sơn quét… đủ cả! Cái gì nó chỉ là hắn làm được ngay, nó có vẻ hài lòng lắm!
(…)

Hắn gượng cười cảm ơn trả lễ nhưng trong thâm tâm hắn, hắn sôi nổi nghĩ rằng, ‘Máy bay mà tao còn lái đủ loại sá chi công việc không cần đầu óc này!’
Hắn xoay người ra cửa sổ như mải mê với cảnh vật chung quanh nhưng cốt để giấu đôi mắt đỏ mọng nước!”

(MNBĐ, trang 84)

Đến truyện “Nỗi Buồn Chiêm Dân” lại là một dời đổi nữa của những ngày! Nhân vật được gọi là “hắn” cùng với hai đứa em trai còn nhỏ theo anh trên chuyến phi cơ cuối cùng rời Sài Gòn hồi tháng 4-1975, lại bắt đầu một ngày khác, ở một nơi khác với một công việc khác! Nhưng rồi cũng qua, dù có lúc tác giả qua nhân vật “hắn” cảm tác mấy câu thơ:

“Mình bơ vơ đất lạ
Truân chuyên đời tha hương
Mây về khuất bóng tà dương
Chiều nghe canh cánh nỗi buồn Chiêm dân!”

(MNBĐ, trang 97)

Nhưng ở đó vậy mà cũng đâu có ở được lâu; ba anh em hắn lại khăn gói lên đường tìm tới một chỗ ở khác nữa:

“Chưa đầy một tháng sau thì anh em hắn đành giã từ ông chủ nông trại sau khi tìm được việc làm mới cho cả ba anh em. Nhà, xe đành trả lại và cám ơn tấm lòng bảo trợ của ông.”
(MNBĐ, trang 100)

Trong truyện “Đường Về Ôi Quá Dài”, là một bước đường phiêu bạt nữa mà ba anh em hắn bắt đầu lặp lại một điệp khúc xa nhà! Chính vào những giờ khắc nhớ tới “Đường Về Ôi Quá Dài” ấy mà lòng hắn, vốn đã nhớ, lại càng nhớ anh em cha mẹ còn lại bên nhà xa cách nghìn trùng! Nhưng rồi cũng chính nơi ấy lại bắt đầu cho hắn thêm một mối tương tư nữa khi cô nàng tóc vàng có cái tên Deana Trick, cháu nội của ông bà chủ nhà.

Có lẽ câu chuyện đến đây sẽ được tiếp nối với “Đi Tìm Quá Khứ” ở trang 197 trong Mưa Nắng Bên Đời, tác giả kể lại trên một chuyến bay từ Las Vegas bay về Houston nhưng chuyến bay sẽ ghé lại phi trường Phoenix để đổi máy bay và gặp lại một người hành khách có khuôn mặt quen quen và từ đó họ bắt đầu lại những liên lạc và đã về thăm lại nơi mà ngày đầu ba anh em hắn dừng chân nơi đất lạ! Rồi sau đó là “Bỏ Qua Một Cơ Hội”, rồi “Thêm Một Bất Ngờ”, tất cả những truyện vừa nhắc là cả một cuộc hành trình dài trải qua mấy mươi năm của nhân vật được gọi là “hắn” rất đầy ân nghĩa mà cũng rất lãng mạn, trữ tình như một bông hoa đẹp giữa cuộc đời nhiều âu lo, buồn nản và phiền muộn này vậy!

Còn những truyện khác như “Sứ Mệnh Tinh Thần”, “Những Điều Chưa Nói”,“Muốn Nối Một Nhịp Cầu” là một chuỗi dài của lòng trắc ẩn nơi nhân vật có tên là Phong, tác giả đã trải lòng ra với tha nhân như một vị Bồ Tát mang lại hơi ấm cùng niềm vui cho người quá cố như Huệ, (chồng của Phương Lan, vừa là bạn, vừa là học trò của Phong ở võ đường); và cho mẹ con của Phương Lan cùng thân mẫu của cô ấy; rồi thêm Châu, một người bạn vong niên sau này, rồi kết thân với Phong, tất thảy, tất thảy như kết thúc một dòng đời đôi lúc trắc trở, éo le nhưng đến cuối cùng dường như có nhiều tia nắng ấm đang chờ…

Thưa bạn, đó là tôi muốn lược kể một cuộc hành trình dài kết dính với nhau như vừa kể. Nhưng có một điều này, tôi muốn đặc biệt giới thiệu với bạn về ba truyện ngắn “Tiễn Con Đi Chiến Trường Iraq”, rồi truyện “Những Ngày Hạnh Phúc Ngắn Ngủi”, và truyện “Thằng Lính Trở Về” từ trang 154 đến trang 194 trong tập truyện Mưa Nắng Bên Đời. Với trọn vẹn 40 trang sách ngắn ngủi ấy so với 313 trang sách thì chẳng được là bao; nhưng nó là điểm son tuyệt diệu của tình gia đình, tình cha con, tình mẫu tử, tình anh em và tình bằng hữu, và cả tình chiến hữu nữa. Không những thế mà nó còn là tình yêu thương của đời này, đời sau dành cho cha mẹ, cho con cái, cho anh chị em, cho bạn bè thân thiết với nhau nhiều đời nữa! Những tình cảm nồng nàn ấy chẳng những nó thắm thiết mà đẹp, nó nồng nàn mà mặn mòi, hạnh phúc! Nhân vật chính đóng vai người cha là “hắn”, nhân vật đóng vai con là “thằng lính”, nghe ra có vẻ xa lạ và dù có những câu đối thoại khá dài, không thuần là đối đáp với nhau như ngoài đời, nhưng đã làm người đọc dù khó khăn và khô khan tình cảm đến mực nào đi chăng nữa cũng phải nhận ra rằng cái tình cảm cha con, cái tình mẫu tử, cái tình anh em, cái tình bạn hữu ấy là một thứ tình thiêng liêng mà tôi không làm sao diễn tả ra hết được ý nghĩa cao đẹp của thứ tình thương yêu ấy với bạn!

Nhưng bạn cố đi tìm cái nghĩa nguyên thỉ của nó để làm gì trong khi chúng ta cần thấu cảm với nỗi lòng của các bậc cha mẹ có con em xông pha ngoài các mặt trận hiểm nguy với khói lửa ngút trời mới là điều mình cần làm phải không bạn?

Thế đó, bạn ơi! Tôi đã cố gắng tóm lược gần hết tập truyện “Mưa Nắng Bên Đời” của tác giả Yên Sơn dày tới 313 trang sách, gom góp gọn lại trong năm ba trang giấy mỏng thì dĩ nhiên rồi, tôi biết là tôi không thể nào gom lại đầy đủ tất cả cho bạn được! Phải vậy không, thưa bạn? Tất cả đó có lẽ là các nét chính về nội dung của cuốn sách, và chắc bạn cũng muốn biết qua một chút về cách diễn tả của tác giả qua các trang sách vừa dẫn chứ gì? Thì đây, xin mời bạn!

Trước hết, qua 21 truyện được tuyển để in trong tập truyện này, Yên Sơn có lối mở đầu rất nhẹ nhàng như một lời chào để rồi mở ra một nội dung bao quát sau này. Chẳng hạn như với truyện đầu tiên “Giấc Mơ Phi Công và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã”, tác giả viết:

“Thời ngồi ghế nhà trường tôi vẫn luôn “nhìn trời cao mà reo, mà mơ ước như diều để níu áo Hằng Nga, nằm bên dải Ngân Hà…” (MNBĐ, trang 19)
Và rồi, tác giả kết:

“Dù không cao sang như “Đường Minh Đế” nhưng tôi cũng đã được “nhàn du khắp tinh cầu”, cũng đã sống một thời hào hùng bên súng bên dao. Nhìn lại đời sống cũ đã một thời “sống giữa lưng trời, đôi khi nghĩ chuyện đời mỉm cười thôi.” (MNBĐ, trang 28).

Chúng ta nghe như thấp thoáng đâu đây chút thương nhớ ngậm ngùi của tác giả khi chợt nhận ra rồi ước mộng ấy đã thành nhưng rồi cũng đã đi vuột khỏi vòng tay trong mấy năm ngắn ngủi và nay còn lại chăng thì chỉ còn lại chút gì xao xuyến trong lòng khi mình có dịp chợt nghĩ về bầu trời và không gian ngày ấy thuở nào!

Ở truyện “Diễm Xưa”, tác giả vào truyện là một đoạn tả cảnh một buổi chiều Sài Gòn:

“Buổi chiều Sài Gòn trời cao nắng nhẹ, đó đây vài cụm mây trắng bay lững lờ. Cả thành phố đắm mình trong màu nắng vàng hanh. Màu nắng làm vàng thêm những chồng cam tươi như những dãy núi nhỏ xa xa đang bày biện trong các gian hàng trái cây ở chợ Bến Thành. Con đường Lê Thánh Tôn đông nghẹt những xe với người. Đúng với câu thơ của cụ Nguyễn Du “dập dìu tài tử giai nhân”. Không biết mình có được liệt vào hàng tài tử trong cái ý nghĩa của cụ hay chăng trong buổi chiều Thu nắng nhạt hôm nay.” (MNBĐ, trang 29)

Với một câu tự hỏi lòng mình như vừa kể, chúng ta thấy tác giả đã mở ra một câu chuyện chàng trai trẻ đang đi dạo phố Sài Gòn ấy rồi ra sẽ gặp một người con gái chắc là phải đẹp lắm! Nội dung cốt truyện có lẽ sẽ là vậy, nhưng nếu chỉ chừng đó thôi, chắc chắn truyện sẽ chẳng có gì đặc sắc và hấp dẫn!

Ở đây cái hay của tác giả là ông sắp xếp cho câu chuyện tài tử và giai nhân gặp nhau trong trường hợp nào, trong hoàn cảnh nào; đó mới là cái trọng tâm của truyện, còn có chút gì với nhau hay không lại là một việc khác. Mời bạn theo chân tác giả:

“Có lẽ tôi quên mất là tôi đang lái chiếc xe Lambretta hai bánh đi giữa dòng xe cộ của một con đường hẹp. Bỗng nghe tiếng thắng gấp đàng sau cùng với tiếng thét hãi hùng của một người con gái. Vừa tấp được vào lề thì tôi phải vội vàng xuống xe vì trước mặt tôi là một chiếc Honda Dame mang hai người con gái cũng vừa dừng lại, mà nàng đang ngồi đàng sau đã nhảy xuống xe và đang hớt hải vụng về hai tay quấn ngang mình một cách hổ thẹn đến trào nước mắt. Nửa vạt áo dài màu xanh da trời đang nằm gọn gang trong căm bánh xe sau. Tôi vội vã cởi chiếc áo jacket đi bay phủ lên vai nàng.” (MNBĐ, trang 29)

Đó, với cái bắt đầu của một cuộc gặp giữa tài tử và giai nhân như vừa rồi nó bất chợt đến độ không thể ngờ ấy; chẳng biết đây có phải là thật hay do tài tưởng tượng của tác giả; nhưng dù gì đi nữa, rồi chúng ta theo dõi câu chuyện thì người đọc sẽ biết được trong một lần cọ quẹt xe sắp gây tai nạn cho người con gái có cái tên Trần Vũ Thị N.A. trong truyện dẫn đến một mối tình khá đẹp hồi những ngày của tuổi hai mươi!

Cũng cần nói thêm ở đây thêm chút nữa là cách xử sự của anh chàng phi công còn rất trẻ ấy là cảnh anh ta “vội vã cởi chiếc áo jacket đi bay phủ lên vai nàng” khi thấy vạt áo dài của nàng bị quấn vô căm bánh xe Honda Dame giữa lúc nàng “đang hớt hải vụng về hai tay quấn ngang mình một cách hổ thẹn đến trào nước mắt.” Còn hình ảnh nào đẹp hơn và cảm động hơn hình ảnh và cử chỉ lịch sự ấy trong giây phút bất chợt của anh chàng phi công trẻ ấy không, thưa bạn?

Ở truyện “Bỏ Qua Một Cơ Hội”, tác giả mở đầu với khúc tả cảnh vào những ngày cuối Thu:

“Cuối Thu, hơi lạnh đi ngang qua khung trời Kingwood. Điếu thuốc trên môi như không đủ hơi ấm, Tuấn kéo cao cổ áo lên một chút khi thả bước dọc bên bờ con suối cạn sau nhà trong một buổi sớm mai khi ngọn cỏ còn ngậm đầy những hạt sương lấm tấm. Lòng suối gầy nhom, chút nước cạn nằm im in bóng mây lãng đãng trên bầu trời xanh cao vút. Vài chiếc lá vàng sậm màu khô thưa thớt đầu cành, đong đưa cùng gió nhẹ. Cỏ hai bên bờ vàng úa báo hiệu sắp thay mùa. Mùa Đông ở nơi này không lạnh bao nhiêu so với Dallas, phía bắc Texas và càng chẳng thấm thía gì so với các tiểu bang miền bắc nước Mỹ. Cái lạnh ở đây chỉ để làm dáng cho biết có sự thay đổi của tháng ngày.” (MNBĐ, trang 216)

Qua vài nét vẽ của đoạn văn vừa trích, tác giả cho người đọc thấy được tác giả có óc quan sát chẳng những vừa tinh tường mà ông còn có óc tưởng tượng rất phong phú nữa với hình ảnh khá đặc biệt mà tác giả muốn mang lại cho người đọc thấy được con suối vào mùa Thu khá gầy guộc với chút nước cạn im lìm: “lòng suối gầy nhom, chút nước cạn nằm im…”

Tôi nghĩ đó là những câu văn rất đẹp mà cũng là một trong các bí quyết viết truyện của Yên Sơn mà lúc nào ông cũng muốn tạo cho người đọc có được nhiều hình ảnh vừa ngạc nhiên, vừa hấp dẫn…

Đành rằng, văn tả cảnh trong truyện của Yên Sơn chỉ thấp thoáng một đôi chỗ, nhưng ông đã phác họa ra được những cảnh chung quanh của các nhân vật rất hợp tình, hợp lý; chính vì vậy mà chẳng những nó làm cho các truyện của ông không quá khô khan đã đành; ngoài ra nó còn gợi được cho chúng ta, những người đọc văn của ông, có cảm tưởng rằng các đoạn tả cảnh ấy nó nói lên được hầu như gần trọn vẹn cái hồn nghệ sĩ của tác giả với chút lãng mạn, chút trữ tình, chút bâng khuâng, chút xao xuyến, chút bàng hoàng…

Rồi còn một điều này nữa, cũng xin nhắc luôn, nếu không sẽ là một thiếu sót. Đó là tác giả rất yêu không gian, yêu trời cao và mây bay theo gió chập chùng… Điều này cũng dễ nhận vì ông vốn là một phi công, mê những chuyến bay và mê bầu trời. Nên khi có dịp tả cảnh, thì cảnh nào dưới mắt ông thế nào cũng có chút mây bay, chút nắng rọi, chút màu thời gian theo gió thổi qua rừng làm rung rinh những cánh lá mà cũng run nhẹ trong lòng ông để rồi bật lên thành khúc nhạc trầm rất nhẹ mà thênh thang một trời nhung nhớ! Chẳng hạn như đoạn trích ở trên hoặc thêm ở đây một đoạn khác cũng nhắc về không gian và nắng vàng ấy:

“Xuyên qua khung cửa sổ, bên ngoài nắng vàng rực rỡ. Phi cơ lên xuống liên tục làm tôi nhớ về những tháng ngày bận rộn bay hành quân năm xưa. Tự hỏi không biết bây giờ phi trường Tân Sơn Nhất ra sao? Không biết lượng máy bay hành khách có lên xuống dập dìu như ở phi trường này? Tôi dán mắt vào khung cửa kính, nhìn ra đường băng mà lòng có chút bùi ngùi” (MNBĐ, trang 197)

Hoặc:

“Mới 7:30 chiều mà trời đã tối mịt, trăng 14 đã nằm cao trên đầu rặng thông trước mặt. Bầu trời có nhiều mây khiến trăng lúc mờ lúc tỏ. Mới đó mà đã trọng Thu rồi. Cơn gió nhè nhẹ thổi ngang mang hơi lạnh làm Phong kéo cao cổ áo khi bước ra xe.” (MNBĐ, trang 287)

Tóm lại, những truyện ngắn trong tuyển tập truyện “Mưa Nắng Bên Đời” của Yên Sơn mà tôi vừa đọc, ở đó không chỉ là những truyện ngắn; mà ở đây có lẽ người đọc đã nhận ra được những trang đời của tác giả gói gọn trong các truyện ấy! Những trang đời với biết bao hồi ức rất sống động của một đời người qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ, nhiều hoàn cảnh khác nhau, chẳng khác nào như một dòng sông cứ mải miết chảy qua những bến bờ đầy lau lách, thác ghềnh để rồi lâu lâu tác giả có dịp ngoái nhìn lại mình, nhìn lại những chặng đường của những ngày “mưa nắng bên đời” mà chợt thấy lòng mình se thắt lại và pha thêm một chút bùi ngùi, nhung nhớ xa xăm…

Hai Trầu-Lương Thư Trung
Houston, ngày 02 tháng 12 năm 2018


« TRANG NHÀ »